Lời Chúa CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN – A

Thứ sáu - 20/10/2023 06:01 |   306
“Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” (Mt 22,15-21)

22/10/2023
CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN – A
Khánh Nhật Truyền Giáo

cn29 TNa

Mt 22,15-21


Ngày 22 tháng 10: Lạy Mẹ Mân Côi! Xin cho chúng con ý thức rằng: Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững, chứ không ngã quỵ. Dưới chân thập giá, Mẹ vẫn im lặng, nhưng sự thinh lặng đầy can đảm thấu tận trời cao: Không một tiếng rên la, than vãn, nhưng là một sự hiệp thông sâu xa để chuyển thành ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại chúng con. Dưới chân thập giá, Mẹ đã trở thành Mẹ của tất cả nhân loại. Vì thế, trong cuộc sống hằng ngày, xin Mẹ luôn đứng bên cạnh tất cả chúng con, nhất là những ai đang đau khổ. Xin cho chúng con luôn vững vàng, vì biết rằng: Mẹ luôn âm thầm chia sẻ và chịu đựng nỗi đau khổ của từng người chúng con như thể của riêng Mẹ. Amen.

TRÁNH NHẦM LẪN ĐÁNG TIẾC
“Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.”
(Mt 22,15-21)

Suy niệm: Lập trường rõ ràng, dứt khoát của Chúa Giê-su đối với Thiên Chúa và tiền của giúp các môn đệ khỏi đánh đồng, nhầm lẫn các giá trị phải chọn lựa trong cuộc sống. Lắm khi người môn đệ khó phân định rạch ròi đâu là ý Chúa, lãnh vực nào thuộc về Ngài và đâu là ý cũng như lãnh vực của Xê-da - đại diện cho tiền của và danh vọng. Hiện nay chủ nghĩa quốc gia-tôn giáo đang trỗi dậy đó đây, đề cao quyền của quốc gia trên tôn giáo, sự tự trị của tôn giáo tại đất nước mình. Người môn đệ dễ bị cám dỗ ngã theo rồi hành động theo chủ nghĩa quốc gia-tôn giáo ấy, phản lại tính phổ quát của đức tin, đức ái. Lúc đó họ trở thành những tín đồ cuồng tín, không chinh phục được ai, trái lại, làm cho nhiều người lìa xa Thiên Chúa. Tín hữu là người vừa mắc nợ tổ quốc về lòng trung thành, vừa mang ơn Thiên Chúa về tình yêu cứu độ. Người tín hữu phải chu toàn cả hai vai trò, không được bỏ vai này phò vai kia.

Mời Bạn: Chúa bảo môn đệ phải nộp thuế phần đời cũng là cách Chúa muốn môn đệ lưu ý đến đưa giá trị Nước Trời vào xã hội trần thế. Thế giới này do Chúa dựng nên, Ngài mơ ước xã hội ấy trở thành Vương quốc của công lý, tình yêu, sự thật, tình phụ tử với Thiên Chúa chi phối đời sống con người. “Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” là thế đó.

Sống Lời Chúa: Là Ki-tô hữu, Chúa bảo ta không được trốn thuế; là công dân Nước Trời, Chúa bảo ta đóng góp theo khả năng cho nhu cầu vật chất của Giáo hội nữa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin mở rộng lòng con, cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người anh chị em, để Nước Chúa được hiển trị mọi ngày.

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật XXIX Thường Niên –Năm A

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, tôi kêu van Ngài, bởi Ngài nhậm lời tôi, xin ghé tai về bên tôi, xin nghe rõ tiếng tôi. Lạy Chúa, xin gìn giữ tôi như con ngươi mắt Chúa, xin che chở tôi trong bóng cánh của Ngài.

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến! Là công dân của quốc gia trần thế và Nước Trời, chúng ta có nghĩa vụ đối với thế quyền và đối với Thiên Chúa. Là công dân của Nước Trời hay Vương Quốc của Thiên Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải tìm kiếm, nhận biết, tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa và làm cho Nước Thiên Chúa được mỗi ngày một rộng mở.

Ngày nay người ta dễ bị cuốn hút vào đời sống vật chất, tiện nghi, hưởng thụ, ích kỷ nên rất khó nhớ tới và chu toàn các nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và cứu độ.

Trong ý nghĩa này, chúng ta cần hoán cải bản thân, để thi hành các bổn phận cho tốt bằng việc thành tâm hốì lỗi.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tạo cho chúng con một tấm lòng trung tín và quảng đại để chúng con nhiệt thành phụng sự Chúa. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: Is 45, 1. 4-6

“Ta đã cầm tay hữu của Cyrô để bắt các dân suy phục trước mặt nó”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Ðây Chúa phán cùng Cyrô, kẻ xức dầu của Chúa mà Ta đã cầm tay hữu nó, để bắt các dân suy phục trước mặt nó, bắt các vua quay lưng lại, mở các cửa trước mặt nó, và các cửa không được đóng lại:

Nhân vì Giacóp tôi tớ Ta, và Israel kẻ Ta kén chọn, Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi khi ngươi không nhận biết Ta. Ta là Chúa, và chẳng còn chúa nào khác: ngoài Ta ra, không có Thiên Chúa nào nữa. Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta, để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa, và chẳng có chúa nào khác.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 95, 1 và 3. 4-5. 7-8. 9-10a và c

Ðáp: Hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang (c. 7b).

Xướng: Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa, hỡi toàn thể địa cầu. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc. – Ðáp.

Xướng: Vì Thiên Chúa, Người hùng vĩ và rất đáng ngợi khen, Người khả uý hơn mọi bậc chúa tể. Vì mọi chúa tể của chư dân là hư ảo, nhưng Thiên Chúa đã tác tạo trời xanh. – Ðáp.

Xướng: Hãy kính tặng Thiên Chúa, hỡi người chư dân bá tánh, hãy kính tặng Thiên Chúa quyền thế với vinh quang, hãy kính tặng Thiên Chúa vinh quang xứng với danh Người. Hãy mang lễ vật, tiến vào hành lang nhà Chúa. – Ðáp.

Xướng: Mặc lễ phục, thờ lạy Thiên Chúa. Toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước thiên nhan, hãy công bố giữa chư dân rằng Thiên Chúa ngự trị. Người cai quản chư dân theo đường đoan chính. – Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Tx 1, 1-5b

“Tôi hằng nhớ đến đức tin, đức cậy và đức mến của anh em”.

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn thành Thêxalônica trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.

Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng; tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta. Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần và với lòng xác tín.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 22, 15-21

Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?” Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến! Để có thể thể thực hiện được nghĩa vụ ”tốt đạo, đẹp đời” cho trọn vẹn và an bình, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:

1. “Ta đã gọi đích danh ngươi: Ta đã kêu gọi ngươi…”.– Xin cho các vị lãnh đạo dân Chúa, luôn khôn ngoan để xử trí trong mọi việc mà nhu cầu mục vụ đòi hỏi, và can đảm mưu tìm vinh danh Chúa, để có thể chu toàn trọn vẹn ý Chúa.

2. “Cái gì của Cesarê thì hãy trả cho Cesarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa“.- Xin cho các công dân trần gian sau khi lãnh nhận phép Thánh Tẩy, trở thành tín hữu của Nước Trời, biết đặt định đúng mức giá trị siêu nhiên và tự nhiên, để dâng lên Thiên Chúa những gì của Ngài và trả cho trần gian những gì thuộc trần gian.

3. “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”,– Xin Chúa sai nhiều sứ giả Tin Mừng đến những cánh đồng hoang vu chưa được gieo vãi hạt giống Lời Chúa và khai quang tâm trí nhiều người, để họ dễ dàng chấp nhận sứ điệp cứu độ của Chúa

4. “Hỡi anh em là những người được Thiên Chúa yêu mến”.— Xin thánh ý Chúa như kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời mỗi người trong giáo xứ chúng ta, để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng an tâm, can đảm sống theo ý Chúa và kết hiệp với Ngài.

Chủ tế:  Lạy Chúa, Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng con “hình tượng và danh hiệu này là của ai?”. Xin cho chúng con mỗi ngày đều biết đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa, và khắc ghi danh hiệu Kitô hữu, càng ngày càng sâu đậm hơn trong đời sống, để mọi người nhận ra Nước Trời đang hiện diện nơi chứng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô …

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết phụng thờ Chúa tại bàn thánh này, với tâm hồn tự do của con cái Chúa, để những mầu nhiệm chúng con đang cử hành đem lại cho chúng con nguồn ơn thanh tẩy. Chúng con cầu xin..

Ca hiệp lễ

Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, và nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.

Hoặc đọc:

Con Người đến, để ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa vừa gọi chúng con tời bàn tiệc Nước Trời và ban dồi dào sức sống mới, xin Chúa phù trợ chúng con trong cuộc sống hằng ngày và dạy chúng con biết tìm kiếm những hồng ân vĩnh cửu. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

Của César

Ngày nay trước vấn đề tục hoá, vai trò của tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng rải rác đó đây vẫn còn những sự kiện đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn giáo chủ Khomenei ra lệnh hành quyết đối với nhà văn Salman Rushdie vì ông này đã báng bổ Hồi giáo qua cuốn “Vần thơ của ác quỷ”. Và cũng đã lâu, các học giả Hồi giáo đòi lấy đầu bà Thủ tướng Butto nước Pakistan vì bà này dám huỷ bỏ luật chặt tay những kẻ trộm cắp. Trong bối cảnh đó thì đoạn Tin Mừng sáng hôm nay có ý nghĩa gì?

Đây là lần đầu tiên bọn biệt phái và phe Hêrôđê liên kết với nhau tưởng rằng sẽ mưu cầu đại sự, ai ngờ chỉ nhằm loại bỏ Chúa Giêsu bằng cách gài bẫy Ngài trước một vấn đề xem ra nan giải: Có được phép nộp thuế cho César hay không? Nêu lên câu hỏi này, bọn biệt pháp chỉ chờ câu trả lời có để ghép tội Chúa Giêsu là kẻ chống phá tôn giáo, đi với đế quốc. Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời không để xếp Ngài vào số những kẻ thù địch với chính quyền. Có hay không, phần thiệt luôn nghiêng về Chúa Giêsu.

Nhưng thật bất ngờ đến độ chưng hửng, Chúa Giêsu không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ, mà còn đẩy họ tới chỗ phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Ngài nói: Của César hãy trả cho César. Đây là một sự kiện thực tế bởi vì họ tiêu dùng tiền Rôma thì cũng phải đóng thuế cho Rôma. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ. Nộp thuế cho César không phải là một hành vi phạm thánh như bọn biệt phái cố tình dàn dựng, nhưng là một hành động hợp lý với những ai có ý thức xã hội.

Bọn biệt phái thì chưng hửng còn phe Hêrôđê thì cụt hứng. Những tưởng đã chụp mũ được Chúa Giêsu trong góc độ chính trị, nếu Ngài phủ nhận quyền bính của César, nhưng Ngài lại muốn khẳng định mình trong cương vị tôn giáo. Thế nên, chẳng thể bảo Ngài là thoả hiệp hay chống đối, bởi vì Ngài là con người tôn giáo biết chu toàn mọi bổn phận công dân.

Vượt trên vấn nạn của kẻ thù, Chúa Giêsu còn mời gọi họ bước tới với trách nhiệm tôn giáo. Dù đứng trong lập trường nào, họ đều là những người Do Thái, kính mến Thiên Chúa và tuân giữ luật lệ của Maisen, nên bổn phận trước hết của họ phải là bổn phận tôn giáo: của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Qua đó Ngài cũng xác quyết vê quyền tối thượng của Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa là chủ và quyền năng của Ngài bao trùm mọi lãnh vực. Ngài không tự đặt mình ngang hàng với César để tranh chấp hay bảo vệ những quyền lợi của mình. Bởi vì nộp thuế hay không nộp thuế cho César đâu có thêm bớt được cho vinh quang của Ngài. Do đó, chúng ta có thể chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa mà vẫn cứ an tâm nộp thuế cho César.

Chúng ta không phải chỉ ngỡ ngàng và thán phục cung cách trả lời của Chúa Giêsu, mà còn ngỡ ngàng và thán phục hơn nữa với nội dung của lời giải đáp, có sức làm bật tung những lối nhìn tù túng. Có thể nói được rằng chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng bao trùm trong mọi lãnh vực. Bởi vì đạo chỉ đẹp hơn khi ở trong đời và đời chỉ tốt hơn khi ở trong đạo.

 

CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:

Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.

Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.

Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.

Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.

Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.

Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.

Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.

Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).

Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.

Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.

Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.

Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).

Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?

2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?

3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?


CỦA XÊDA TRẢ XÊDA, CỦA THIÊN CHÚA TRẢ THIÊN CHÚA
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB.

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật XXIX Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Chúa các chúa, Vua muôn vua, vì thế, Chúa là Đấng rất đáng chúng ta tôn thờ và phụng sự. Chúng ta tôn thờ Chúa như thần dân đối với Vua trong Vương Quốc của Người, và chúng ta phụng sự Chúa như con thơ đối với Cha hiền trong Nhà của Người. Do đó, chúng ta không chỉ xin ơn trung tín: để tuân giữ những gì Chúa truyền dạy, mà còn phải xin cho mình có lòng quảng đại: để làm hơn cả những gì luật dạy, mà đáp lại tình phụ tử bao la cao cả của Người.

Trong bài đọc một của Thánh Lễ hôm nay, Chúa phán với ngôn sứ Isaia rằng: Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Thiên Chúa cao cả quyền năng, muốn làm gì là Chúa làm nên: Đức Chúa đã cầm lấy tay phải vua Kyrô để bắt các dân tộc suy phục ông, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách hôm nay, Thiên Chúa đã can thiệp để cứu thoát Dân của Người, khi cất nhấc cô Étte lên ngôi hoàng hậu thay cho bà Vátti, đúng như lời Thánh Vịnh 112 nói: Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất? Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý.

Bởi vì Thiên Chúa là Đấng rất đáng chúng ta tôn thờ và phụng sự, nên trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 95, vịnh gia đã kêu gọi chúng ta: Hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Tuy Thiên Chúa cao cả quyền năng, nhưng, Người không phải là một ông chủ hà khắc, trái lại, Người luôn tỏ lòng yêu thương đối với con cái mình, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh đã cho thấy: Chúng ta cầu nguyện với Đấng đã biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta xin. Thiên Chúa chúng ta không cần chúng ta tỏ ý muốn của chúng ta cho Người biết, vì Người không thể không biết, nhưng, Người muốn dùng việc cầu nguyện để kích thích lòng khao khát của chúng ta, hầu chúng ta có thể lãnh nhận ơn Người sẵn sàng ban cho, như ngôn sứ Giêrêmia đã nói: Các ngươi hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho gặp; đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhậm lời các ngươi. Chính Ta biết kế hoạch Ta sẽ làm cho các ngươi, kế hoạch thịnh vượng chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng.

Tâm tình chính đáng và phải đạo mà chúng ta dành cho Thiên Chúa, chính là: lòng tin, lòng mến, và lòng trông cậy chúng ta đặt nơi Người. Khi chúng ta dám can đảm sống như các tín hữu Thêxalônica trong bài đọc hai của Thánh Lễ hôm nay: làm việc vì lòng tin, khó nhọc vì lòng mến, và kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa, sống như thế, chúng ta sẽ cho mọi người thấy: chúng ta sống trong thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian: Giữa thế gian, chúng ta  chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm sáng tỏ lời ban sự sống như câu Tung Hô Tin Mừng của ngày lễ hôm nay mời gọi.

Chúng ta sống tương quan với Đấng Sáng Tạo và với các thụ tạo của Người ở hai chiều kích: công bình và bác ái. Hội Thánh dạy chúng ta có hai cách ăn năn tội: cách chẳng trọn và cách trọn; “cách chẳng trọn” là không phạm tội vì sợ hình phạt hỏa ngục, còn “cách trọn” là vì lòng yêu mến Chúa.

Của Xêda, trả về Xêda”, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin ơn trung tín để chúng ta trung thành tuân giữ nghĩa vụ của một công dân trong Nước Chúa: thờ phượng Chúa và sống công bình với tha nhân. “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin ơn quảng đại để chúng ta sẵn sàng dấn thân làm hơn cả những gì luật buộc, hầu đáp đền tình yêu vô bờ mà Chúa dành cho chúng ta, bởi vì, Người là Cha nhân hậu, hằng luôn yêu thương chăm sóc chúng ta; và chúng ta phải yêu thương tha nhân, bởi vì, chúng ta đều là anh chị em của nhau, con cùng một Cha trên trời.

Của Xêda”, đồng tiền có in hình ảnh của Xêda, tức những gì thuộc về thụ tạo của Thiên Chúa, “Của Thiên Chúa”, nén vàng có in hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Người. Tất cả là của Thiên Chúa, Người đã ban cho chúng ta cách nhưng không. Do đó, những gì chúng ta nhận được từ Thiên Chúa, hay từ các thụ tạo của Người là tha nhân và thiên nhiên vạn vật xung quanh chúng ta, thì theo lẽ công bình và những đòi hỏi của tình yêu, chúng ta cũng phải có những tâm tình, thái độ hồi đáp tương xứng và còn hơn thế nữa, để giữa một thế giới tăm tối bị bao bọc bởi những bất công, hận thù, chia rẽ, chúng ta chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, và làm sáng tỏ lời ban sự sống như câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay.

ĐẶT MỌI THỨ ĐÚNG CHỖ
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”;

“Đồng xu của Caesar được làm bằng vàng, trên đó khắc hình người; đồng vàng của Thiên Chúa là con người, trên đó khắc hình Chúa. Hãy dâng của cải của bạn cho Caesar và giữ lương tâm trong sạch của bạn cho Thiên Chúa!” - Hilary Poitiers.

Kính thưa Anh Chị em,

Câu nói tuyệt vời của vị thánh tiến sĩ được gặp lại qua Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay. Những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu có nên nộp thuế cho hoàng đế không; họ cố gài bẫy Ngài. Chúa Giêsu trả lời, “Của Caesar, trả về Caesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”; nghĩa là đối với mọi vật, mọi người, bạn và tôi phải ‘đặt mọi thứ đúng chỗ’ của nó!

Hiểu được ác ý của những kẻ gài bẫy, Chúa Giêsu trả lời họ một cách có tính toán nhưng hoàn toàn bất ngờ, ngoài mong đợi! Nếu Ngài chống lại Caesar, họ đã có thể tố cáo Ngài; ngược lại, nếu Ngài ủng hộ việc nộp thuế, Ngài trúng kế của họ. Tuy nhiên, khi không lên tiếng chống lại Caesar, Chúa Giêsu đã tương đối hoá câu trả lời, như thể “Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Ngài cho biết, phải trả lại Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài vì Ngài là Thiên Chúa, và là Chúa của mọi quyền lực thế gian.

Như mọi người cai trị khác, Caesar không thể tuỳ tiện sử dụng quyền lực. Các đầy tớ trong dụ ngôn “Những Nén Bạc” phải giải trình cho Chủ về việc sử dụng chúng; cũng thế, quyền lực của Caesar! Ngài sẽ nói với Philatô, “Ông không có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống”. Bài đọc Isaia hôm nay cho biết, “Chúa phán với vua Kyrô, Ta đã cầm lấy tay phải nó, bắt các dân tộc suy phục nó”. Thánh Vịnh đáp ca rất ý tứ, “Hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang!”. Vì thế, trả lời cho những kẻ gài bẫy mình, Chúa Giêsu không muốn tỏ ra là một kẻ kích động chính trị, Ngài chỉ đơn giản ‘đặt mọi thứ đúng chỗ!’.

Với câu nói của Chúa Giêsu, nhiều người cho rằng, Giáo Hội không nên ‘can thiệp’ vào chính trị, để chỉ quan tâm đến sứ mệnh cứu độ và các vấn đề đức tin. Cách giải thích này hoàn toàn sai! Xử lý các vấn đề của Thiên Chúa không chỉ là quan tâm đến việc thờ phượng, mà còn quan tâm đến những gì liên quan đến ‘con người và mọi người’; đồng thời, quan tâm đến ‘công lý của con người!’. Vờ vịt cho rằng, Giáo Hội không rời phòng áo; điếc, mù và câm trước các vấn đề đạo đức cũng như những lạm dụng của thời đại… chẳng khác gì ăn trộm của Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Đức Bênêđictô 16 nói, “Khoan dung thừa nhận Thiên Chúa vốn chỉ can dự vào những việc riêng tư, nhưng từ chối Ngài ở các lĩnh vực công cộng… không phải là khoan dung mà là đạo đức giả!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa!”. Bạn và tôi là con cái Chúa, điều Phaolô khéo nhắc trong thư Thessalônica hôm nay, “Thiên Chúa đã chọn anh em”. Vì thế, phó thác tất cả cho Chúa và hy vọng nơi Ngài không có nghĩa là trốn tránh thực tại; đúng hơn, chuyên tâm trả lại cho Chúa những gì thuộc về Ngài. Đồng thời, trả lại cho ‘hoàng đế thế gian’ những gì thuộc về nó bằng cách từ bỏ hoặc đơn giản là tách mình ra khỏi nó. Chúng ta, “những đồng vàng khắc hình Chúa” dâng điều vĩnh cửu, tức là linh hồn mình, cho Thiên Chúa vì chúng ta là của Ngài! Làm như thế, bạn và tôi đã ‘đặt mọi thứ đúng chỗ!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con là đồng vàng của Chúa. Đừng để thế gian mê hoặc làm con hoen ố. Giữ tim con luôn hướng về Ngài, ‘thiên đàng phú túc’ hôm nay và mai ngày của con!”, Amen.

 

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Khánh Nhật Truyền Giáo

Dẫn vào Thánh lễ

Hôm nay là Khánh nhật Truyền giáo. Hội Thánh dành riêng để cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đồng thời nhắc nhở chúng ta về bổn phận cầu nguyện, đặc biệt cho việc truyền giáo. Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh, vì thế mỗi Kitô hữu có trách nhiệm và bổn phận truyền giáo, nghĩa là đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người.

Giờ đày trong tâm tình sốt mến, chúng ta cùng ăn năn thống hối để dâng Thánh lễ.

Ca nhập lễ

Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc; vì Chúa hùng vĩ và rất đáng ngợi khen.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, xin hãy nhìn đến cánh đồng đầy lúa chín và đoái thương sai thợ gặt đến rao giảng phúc âm cho muôn loài, để dân Chúa được lời hằng sống qui tụ và được thần lực các bí tích thúc đẩy, biết tiến bước trên đường cứu độ và bác ái. Nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con….

Bài Ðọc I: Is 60, 1-6

Trích sách Tiên Tri Isaia.

Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.  Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.  Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.  Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.  Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi.  Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Ðức Chúa.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 18, 2-5

Ðáp: Âm thanh họ truyền khắp địa cầu.

Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. – Ðáp.

2) Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Chúa căng lều cho thái dương tại đó. – Ðáp.

Bài Ðọc II: 1Tm 2,1-8

Trích Thư Thánh Phaolô Tông Ðồ Gửi Tín Hữu Timôthê.

Vậy tiên vàn mọi sự, tôi truyền phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng, ngõ hầu ta được qua một đời yên hàn, ổn định, trong đạo đức vẹn toàn và nghiêm chỉnh. Ðó là điều tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa, Cứu Chúa của ta. Người muốn cho mọi người được cứu thoát và được nhìn biết sự thật. Vì chỉ có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: một người, là Ðức Yêsu, Ðấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người; chứng đã tuyên ra vào chính thời chính buổi, mà tôi đã được đặt làm lệnh sứ, làm tông đồ — và tôi nói thật, chứ không nói dối — làm tấn sĩ dân ngoại, trong đức tin, trong sự thật.

Vậy tôi muốn nam nhân cầu nguyện mọi nơi thì giăng lên những bàn tay lành thánh, không nóng giận, không cãi cọ.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài đọc sau đây:

Bài Ðọc II: Cv 1, 3-8

Trích sách Công Vụ Tông Ðồ.

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Ðồ, Ðức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.

Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất”.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mt 28, 19-20

Alleluia, alleluia! – Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ. – Alleluia.

Phúc Âm: Mc 16,15-20

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.

Và Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”.

Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Yêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:

Phúc Âm: Mt 28, 16-20

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Ðức Giêsu đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Ðó là lời Chúa.

Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:

Phúc Âm: Lc 24, 44-53

Khi hai môn đệ từ Emmau trở về còn đang nói với nhóm Mười Một, thì chính Ðức Giêsu đứng giữa các ông. Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.”

Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này. Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”

Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Ðền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta được mời gọi nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, tin tưởng và phó thác nơi Người trong mọi hoàn cảnh đời sống. Giờ đây chúng ta dâng lên Người những lời khẩn nguyện, xin Người trở thành bạn đồng hành trong cuộc đời của chúng ta.

1. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử của Giáo Hội, để các ngài chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó, trong tinh thần dấn thân phục vụ, ngõ hầu bày tỏ cho mọi người lòng nhân hậu của Chúa.

2. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà truyền giáo đang nỗ lực đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho những ai chưa biết Chúa được biết Chúa nhờ lời rao giảng và nhờ chứng tá đời sống của các nhà truyền giáo.

3. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người thuộc mọi dân tộc và ngôn ngữ, biết tôn trọng thiên luật mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm khảm mỗi người, nhờ đó họ trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da và trả cho Chúa những gì thuộc về Chúa.

4. Chúng ta cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, kiên vững trong đức tin, quảng đại trong đức ái, nhẫn nại trong niềm hy vọng, nhờ đó đời sống của chúng ta trở thành chứng tá về sự hiện diện của Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con. Xin Thần Khí Chúa giúp chúng con biết chung tay xây dựng một thế giới công bằng, bác ái và huynh đệ hơn. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin nhìn đến dung nhan của Ðức Kitô Ðấng đã hiến thân làm giá cứu chuộc mọi người, để nhờ Người, từ đông sang tây, danh Chúa được ngợi khen nơi các dân tộc và khắp mọi nơi một của lễ duy nhất được hiến dâng lên Chúa uy linh. Nhờ Ðức…

Ca hiệp lễ

Chúa phán: Các con hãy dạy dỗ cho muôn dân, tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, chúng con đã được hồng ân cứu chuộc bổ dưỡng, chúng con nài xin Chúa, nhờ ơn cứu độ muôn đời trợ giúp, cho đức tin chân thật luôn luôn tăng trưởng. Nhờ Ðức Kitô…

Suy niệm

SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Từ 82 năm nay, ngày Chúa Nhật giữa tháng 10 dương lịch được chọn làm Ngày thế giới truyền giáo. Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng thường công bố một sứ điệp kêu gọi cộng đoàn Công giáo thế giới hãy suy tư và hành động để tham gia sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Sứ điệp nhân ngày truyền giáo năm 2008 mang chủ đề: “Được mời gọi để trở thành những môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu Kitô”. Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô đã nêu rõ tính cách thánh thiêng của sứ mạng truyền giáo, vì đây “là một ân sủng, một ơn gọi xứng hợp và căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (trích Tông Huấn Loan báo Tin Mừng số 14). Truyền giáo chính là lệnh truyền của Đấng Cứu Thế với các môn đệ trước khi Người về trời. Công cuộc truyền giáo càng trở nên cấp bách hơn nữa trong thời đại hôm nay, khi con người càng ngày càng tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo và những giá trị tâm linh.

Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Bí tích này cũng mời gọi chúng ta trở nên môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu, qua những cố gắng của bản thân trong cuộc sống mỗi ngày.

Trở nên môn đệ là muốn sống đời nội tâm, thực thi Lời Chúa và gắn bó với Người, tức là nên thánh.

Trở nên tông đồ là mong làm cho nhiều người hiểu biết Chúa và đi theo làm môn đệ Người, tức là truyền giáo.

Môn đệ và tông đồ, hai sứ mạng này có tương quan mật thiết với nhau đến nỗi trở thành một ơn gọi duy nhất. Không thể làm tông đồ nếu trước đó không trở nên môn đệ; cũng không thể là môn đệ đích thực nếu không thao thức làm việc tông đồ.

Truyền giáo là gì?

Chúng ta thường xuyên nghe nói về từ này. Nguyên gốc của từ này là một danh từ tiếng La-tinh Missio, động từ là Mittere. Từ này có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa thường được hiểu là gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng. Đức Giêsu chính là Đấng được Đức Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người và tạo vật. Chính Đức Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Người trong sứ mạng cao cả này.

Truyền giáo trước hết là “ra đi” khỏi chính con người của mình: chúng ta ai cũng có khuynh hướng ích kỷ, khép kín và coi mình là trung tâm. Chúng ta thường lấy mình làm tiêu chuẩn để phán đoán người khác. Ai không có lối suy nghĩ giống chúng ta thì bị phê bình chỉ trích. “Ra đi” khỏi cái tôi của mình, tức là chấp nhận người khác cùng với ý kiến lập trường của họ, là quảng đại bao dung khi bị xúc phạm. Truyền giáo chính là thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để hòa đồng với anh chị em mình, tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận những hy sinh vì ích chung. Các môn đệ đầu tiên, khi nghe Đức Giêsu kêu gọi, đã bỏ mọi sự mà theo Người. Các ông từ bỏ những dự tính nghề nghiệp, từ bỏ môi trường gia đình, làng xóm. Các ông không hề băn khoăn lo lắng cho ngày mai, nhưng sẵn sàng bước theo Thày, vì các ông tin rằng theo Thày sẽ không phải thiệt thòi thất vọng.

Truyền giáo còn là “ra đi” khỏi những định kiến: Cuộc sống này được dệt lên bởi những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ. Bước ra khỏi những định kiến để đón nhận tha nhân trong tình huynh đệ hài hòa, không phân biệt lập trường chính trị, tôn giáo hay quan điểm xã hội. Một cộng đoàn đức tin gò bó trong quan niệm khắt khe không thể truyền giáo có hiệu quả. Một Giáo Hội dửng dưng với những giá trị trần thế, hoặc khép mình trước những biến cố vui buồn của cuộc sống xã hội chung quanh, sẽ là một Giáo Hội ảm đạm u sầu thay vì hân hoan hy vọng. Một cộng đoàn không dấn thân phục vụ con người sẽ trở nên một thứ ao tù không lối thoát và thiếu sinh khí.

Nhờ hai yếu tố nêu trên, chúng ta tiến tới một điểm cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất, truyền giáo chính là kể lại cuộc đời của Đức Giêsu. Câu chuyện về Đức Giêsu đã được kể từ 2000 năm nay mà không lỗi thời. Lời giảng của Đức Giêsu đã được loan báo từ 20 thế kỷ mà vẫn không mất tính thời sự. Cuộc đời Đức Giêsu đã và đang được kể lại một cách phong phú không những chỉ qua sách vở, mà còn qua chính cuộc đời của các tín hữu. Xuyên qua con người của họ, người ta đọc thấy chính cuộc đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã cảm thông với người đau khổ, đã chữa lành người bệnh tật, đã phục sinh người chết, đã chúc lành và đã chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn trong ngày cưới. Như vậy, truyền giáo chính là sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu. Truyền giáo là có trái tim như trái tim của Chúa, có đôi mắt như đôi mắt của Chúa. Trái tim để yêu và đôi mắt để trao gửi tình thân thiện.

Như thế, truyền giáo không buộc phải làm điều gì to tát ồn ào, mà khởi đi từ những gì rất âm thầm bình dị trong cuộc sống. Chính những hành động bình dị đó có thể mang lại những hiệu quả lớn lao, khi chúng ta thực hiện với thao thức truyền giáo.
 

KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO NĂM 2023
(XIN CHỦ SAI THỢ RA GẶT LÚA VỀ)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

“Missio” thường được dịch là “truyền giáo”, nên chúng ta thường để ý đến việc truyền đạo, đem Chúa đến cho người khác, mà quên mất “Missio” nghĩa là việc gởi đi, phái đi, sai đi thi hành sứ mạng, thi hành mạng lệnh. Chúng ta chỉ một sứ mạng duy nhất, đó chính là sứ mạng của Đức Kitô, Người được Chúa Cha sai đến thế gian (x. Ga 5,24;17,3); Chúa Kitô Phục Sinh sai Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh (x. Lc 24,49; Ga 15,26). Đức Kitô sai các Tông Đồ và Hội Thánh đi rao giảng Tin Mừng (x. Mc 16,15; Mt 28,19; Cv 1,8). Sứ mạng của mỗi người chúng ta xuất phát từ sứ mạng của Đức Kitô. Do đó, “truyền giáo” là thông dự vào và chia sẻ cùng một sứ mạng của Đức Kitô: sứ mạng thì chỉ có một, nhưng bao gồm nhiều sứ vụ khác nhau: sứ vụ tông đồ (apostolat), sứ vụ mục vụ (pastoral), sứ vụ của các mục tử, sứ vụ của người giáo dân, sứ vụ của các nhà giáo dục, sứ vụ của các nhà hoạt động xã hội… Một điều cần lưu ý nữa liên quan đến từ “Missio”: sứ mạng, chúng ta thường thấy trên các thiệp mời của lễ truyền chức phó tế và linh mục là: lãnh nhận tác vụ phó tế, tác vụ linh mục, thiếu mất chữ “thừa”, chữ “thừa” mới cho thấy căn tính và sứ mạng của người lãnh nhận, bởi vì, đương sự không thực hiện tác vụ của chính mình, nhưng, là thi hành tác vụ do sự thừa kế, thừa hưởng, thừa hành, thừa lệnh của Đức Kitô. Do đó, đầy đủ phải là lãnh nhận thừa tác vụ phó tế, thừa tác vụ linh mục.

Đức Giêsu khi thi hành sứ mạng, Người luôn ý thức căn tính của mình là: được sai đến, không phải để làm theo ý mình, nhưng, là làm theo ý Đấng đã sai mình; Lương thực của Người là thi hành ý muốn của Chúa Cha, còn chúng ta, khi thi hành sứ mạng, dường như, chúng ta quên mất căn tính, nguồn cội của mình. Chắc, có lẽ vì thế mà, chúng ta vẫn có rất nhiều chương trình, kế hoạch truyền giáo rất hoành tráng: tốn rất nhiều công sức, và tiền của, nhưng, dường như, việc truyền giáo của chúng ta vẫn không mang lại những hoa trái tốt đẹp như lòng Chúa ước mong.

Để thi hành sứ mạng truyền giáo, chúng ta phải xác tín rằng: Động lực đầu tiên thúc đẩy chúng ta thi hành sứ mạng là tình yêu của Ðức Giêsu, Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta. Chính tình yêu cứu độ này đã thúc bách chúng ta yêu Người mỗi ngày một hơn. Thử hỏi có tình yêu nào: mà người được yêu, lại không cảm thấy: có nhu cầu, cần phải nói cho người khác biết về người mình yêu? Nếu chúng ta không cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt, để chia sẻ về tình yêu này, chúng ta cần phải tha thiết cầu xin Chúa: chạm đến tâm hồn cứng cỏi của chúng ta, mở rộng cõi lòng băng giá của chúng ta, và lay động con tim thờ ơ lãnh đạm của chúng ta.

Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa với một tấm lòng rộng mở, hãy để cho Người ngắm nhìn ta, để ta bắt gặp ánh mắt chan chứa tình yêu của Người. Trong khi thi hành sứ mạng truyền giáo, thật tốt lành biết bao khi ta đứng trước Thánh Giá, hoặc quỳ gối trước Thánh Thể, hay đơn giản chỉ là ở trong sự hiện diện của Chúa để chiêm ngắm Chúa và thầm thĩ với Người. Tốt lành biết mấy khi Người một lần nữa chạm đến cuộc đời chúng ta, và thúc đẩy chúng ta chia sẻ sự sống mới của Người cho người khác: “Ðiều chúng tôi đã thấy, đã nghe, và đã chạm đến, chúng tôi loan báo lại cho anh em” (1Ga 1,3).

Chúng ta phải thừa nhận rằng: Động lực tốt nhất để loan báo Tin Mừng, đến từ việc chiêm niệm Tin Mừng với tình yêu mến, ước gì chúng ta biết dừng lại bên những trang Thánh Kinh và đọc Lời Chúa với cả tấm lòng. Nếu chúng ta tiếp cận Lời Chúa theo cách này, vẻ đẹp của Lời Chúa khiến chúng ta phải ngỡ ngàng, kinh ngạc. Chúng ta hãy nhớ rằng: mình đã được ủy thác một kho tàng quý báu, kho tàng này làm cho chúng ta trở nên người hơn, giúp chúng ta sống một đời sống mới trong Chúa, và chia sẻ đời sống đó cho tất cả mọi người.

Hội Thánh là Đoàn Dân Thiên Chúa: “Xưa kia anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa” (1Pr 2,10). Chúng ta phải ý thức rằng: “Sứ mạng” là niềm say mê của Đức Giêsu, đồng thời, cũng là niềm say mê của Dân Người. Khi đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy chiều sâu tình yêu bừng sáng của Người: trải rộng ra, để ôm trọn tất cả Dân của Người. Bởi vì, Người chọn chúng ta từ giữa muôn dân và sai chúng ta đến với Dân của Người, cho nên, sứ mạng truyền giáo của chúng ta phải đưa chúng ta đến tận trung tâm của Dân Người. “Sứ mạng” ở giữa lòng dân chúng không phải là một phần của đời sống chúng ta, hay như một thứ đồ trang sức, mà chúng ta có thể tháo cởi; “sứ mạng” này không phải là một “vai phụ”, hay là một thời gian phụ trội trong đời sống chúng ta. Trái lại, “sứ mạng” là điều gì đó chúng ta không thể bứng ra khỏi con người của chúng ta, mà không hủy diệt chính bản thân mình. Chúng ta là “sứ mạng” trên trần gian này, đó là lý do: tại sao chúng ta có mặt ở đây, trong trời đất này.

Xin Chúa cho chúng ta ý thức rằng: Chỉ một lần chúng ta tách “sứ mạng” ra khỏi cuộc sống của mình, thì ngay lập tức, tất cả mọi sự sẽ trở nên tẻ nhạt, và chúng ta sẽ đi tìm danh vọng, cùng những tham vọng ích kỷ của mình. Khi đó, chúng ta không còn là Đoàn Dân Chúa nữa. Xin cho chúng ta ý thức rằng: Qua sứ mạng đem Tin Mừng đến cho mọi người, chúng ta được đóng ấn là Đoàn Dân Chúa. Nếu chúng ta có thể giúp: ít nhất cho một người, có một cuộc sống tốt hơn, chỉ điều đó thôi, cũng đủ là hy lễ của cuộc đời chúng ta rồi. Xin cho chúng ta luôn hướng tới mục tiêu trở thành một Dân trung thành của Chúa, với “sứ mạng” mà Chúa đã trao phó cho chúng ta.


TRUYỀN GIÁO - SỨ MẠNG “LÊN ĐƯỜNG” CỦA HAI ĐỒNG TIỀN KẼM
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Đức Giêsu ngồi đối diện thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ, Người thấy bà góa nghèo đã bỏ cả tấm lòng của mình vào trong thùng dâng cúng chỉ với hai đồng tiền kẽm. Quan sát hai đồng tiền kẽm của bà góa, chúng ta phải thừa nhận rằng: đồng tiền kẽm nào cũng có lịch sử phức tạp và dài dằng dặc của nó. Trong số hai đồng tiền kẽm này: có đồng từng là mục tiêu nài xin của người ăn mày đầu phố, có đồng từng là mồ hôi nước mắt của người lao động nghèo, có đồng được đem đổi bát cháo lót lòng của kẻ đói khó, có đồng từng được mua kẹo ngọt dỗ bé em khóc nhè, có đồng từng ngủ yên bên bụng phệ phú ông, có đồng từng nhởn nhơ ẩn cư dưới đáy hố xí, có đồng lại đã kinh qua tất cả những trải nghiệm trên đây, hơn nữa, biết đâu có đồng đã từng đến tay bà góa không phải lần đầu… Hai đồng tiền kẽm: nếu biết nói, chúng sẽ thuật lại đủ mọi chuyện ngao du; nếu biết viết, chúng sẽ viết được những chuyến du hành đầy ngoạn mục, tiếc thay, chúng chỉ im thin thít, chẳng hề hé môi, chỉ âm thầm dấn thân nhập cuộc: đến, rồi đi, tùy theo người sử dụng chúng, chúng nhận được cách nhưng không, cũng cho đi cách nhưng không, không hề giữ gì lại cho mình, không bao giờ mệt mỏi tiến bước, luôn trung thành với sứ mạng “lên đường” của mình.

Chiêm ngắm hành trình “lên đường” không mệt mỏi của hai đồng tiền kẽm, chúng ta có dịp để nhìn lại sứ mạng “lên đường” của Hội Thánh. Hội Thánh của Đức Kitô là một Hội Thánh luôn luôn “lên đường”. Thánh Kinh chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa thách đố những ai tin vào Người như thế nào, và họ phải “lên đường” với lòng tin ra sao. Ông Ápraham đã nhận được lời mời gọi “lên đường” đến một vùng đất mới. Ông Môsê đã nghe tiếng Chúa gọi “lên đường” và ông đã dẫn dắt dân Chúa “lên đường” hướng về Ðất Hứa. Trong đời sống mỗi người chúng ta, lệnh truyền “lên đường” vẫn vang dội trong những hoàn cảnh mới, với những thách đố mới, và tất cả mọi thành viên của Hội Thánh đều được mời gọi tham dự vào sứ mạng “lên đường”, bởi vì, Chúa luôn mời gọi chúng ta “lên đường”, đi ra khỏi khu vực tiện nghi an toàn của mình, để đến mọi vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng. Lòng hăm hở “lên đường”, ra khỏi chính mình, phải luôn là động lực thôi thúc chúng ta như lời Chúa dạy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38).

Đứng trước lời mời gọi “lên đường”, ước gì chúng ta đừng “nán lại”, nhưng, hãy để Chúa Thánh Thần dẫn dắt mình: đi đến “các làng mạc khác”, đừng dừng lại chờ kết quả, để thụ hưởng hoa trái công khó tay mình làm ra, bởi vì, Tin Mừng, tự nó có quyền năng, mà chúng ta không thể dự đoán được, một khi đã được gieo, thì nó tự mọc lên, ngay cả khi chúng ta thức hay ngủ. Ước gì chúng ta biết trung thành noi gương Đức Giêsu “lên đường”, và coi việc “lên đường” loan báo Tin Mừng có tầm mức quan trọng sống còn đối với chúng ta. Khi thấy cỏ lùng mọc lên giữa những cây lúa, chúng ta đừng vội oán trách, nhưng hãy kiên nhẫn chờ đợi, và biết mở lòng ra để chiêm ngắm cách thế mà Lời Chúa nhập thể, trong những hoàn cảnh, cho dẫu không mấy thuận lợi.

Hội Thánh luôn có Mẹ cùng đồng hành, Mẹ luôn luôn hiện diện giữa lòng Dân Chúa. Mẹ là Mẹ của Hội Thánh, nếu không có Mẹ, chúng ta không thể thật sự hiểu được tinh thần của sứ mạng lên đường truyền giáo. Có một “kiểu mẫu” Maria cho sứ mạng truyền giáo của chúng ta. Nơi Mẹ, chúng ta thấy rằng: đức khiêm nhường và lòng nhân ái không phải là những nhân đức của những người yếu đuối, nhưng, của những người mạnh mẽ, những người không cần phải ngược đãi người khác để cảm thấy mình quan trọng. Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, xin Chúa ban cho chúng ta biết đáp lại lời mời gọi: tích cực dấn thân lên đường truyền giáo. Mẹ là người nữ của lòng tin, Mẹ sống và tiến bước trong đức tin, chúng ta hãy ngước mắt nhìn lên Mẹ, để xin Mẹ phù giúp chúng ta trong hành trình truyền giáo, nhất là, vào những thời điểm khô khan, đen tối và thậm chí mệt mỏi chán chường. Mẹ đã kinh qua những “đêm tối đức tin” để tiếp cận với Ðấng Vô Hình, xin Mẹ lấy tình mẫu tử chuyển cầu cho chúng ta: trở thành muối men, thành ánh sáng cho mọi nước, mọi dân, để cùng với Mẹ, chúng ta tiến bước không ngừng trên hành trình truyền giáo.

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO
Xh 22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mt 28,16-20 – Lm Đan Vinh

LOAN BÁO TIN MỪNG BẰNG VIỆC LÀM CHỨNG CHO CHÚA

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2. Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC SINH:

Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê. Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mệnh đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có đức tin nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mệnh dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và còn hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

3. CHÚ THÍCH:

- C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa phản bội nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục Sinh nhắc lại vào buổi sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10), các môn đệ đã quay trở lại miền Ga-li-lê nhưng thiếu mất Giu-đa. Ga-li-lê là địa điểm truyền giáo chủ yếu của Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin mừng. Qua việc ra lệnh cho các môn đệ trở về Ga-li-lê, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, tức là sau khi Người đã từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là quả núi nào. Sách Công Vụ nói đó là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giê-su xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để củng cố đức tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).

- C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành động tỏ ra sự ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa Ba Ngôi. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến đến khi Người lại đến vào ngày tận thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).

4. HỎI ĐÁP:

- HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi?

ĐÁP:

Có hai ý kiến giải thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:

1. Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giê-su hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?

2. Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.

- HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giê-su ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi?

ĐÁP: Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội “Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được”Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su” như sách Công Vụ thuật lại.

- HỎI 3: Sau khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa muốn các ông hãy rửa tội cho người ta trước rồi mới dạy dỗ sau?

ĐÁP: - Công việc cứu thế của Đức Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho Hội Thánh thực hiện như sau:

Một là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29).

Hai là chữa lành các bệnh tật. Chẳng hạn: bệnh phong (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt 8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh bé gái (x. Mt 9,25), chữa bệnh mù lòa (x. Mt 9,29), và nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)...

Ba là trừ quỷ. Chẳng hạn: xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó ám (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt 9,32-33), bắt quỷ kinh phong phải xuất ra (x Mt 17,15-18)…

Bốn là dạy dỗ. Hãy dạy tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Chúa truyền (x. Mt 28,20).

- Lời Chúa dạy nói trên chỉ muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc phải làm là rửa tội và giảng dạy, chứ không buộc phải theo thứ tự trước sau giữa việc rửa tội và việc giảng dạy. Theo truyền thống từ thời sơ khai, Hội Thánh đã luôn giảng dạy trước để chuẩn bị tâm hồn dự tòng rồi khi họ hiểu biết và tuyên xưng đức tin mới ban phép rửa tội dìm mình trong nước cho họ như Phi-líp-phê đã làm cho viên thái giám được thuật lại trong sách Công vụ tông đồ (x. Cv 8,26-40). Sách Đi-đa-kê đã chỉ dẫn việc cử hành phụng vụ phép rửa tội như sau: “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7,1).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

2. CÂU CHUYỆN:

1) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP SÁNG NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG LÒNG MỌI NGƯỜI:

Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA là một nữ tu người An-ba-ni, được nhà dòng sai đến phục vụ người nghèo tại nước Ấn Độ. Khi tận mắt chứng kiến rất nhiều người quá nghèo khổ, trải qua giờ phút hấp hối trên lề đường, sau khi chết bị thiêu hủy như một con vật; bao gia đình phải sống trong các túp lều ổ chuột... Mẹ đã chọn con đường tu hành bằng việc thực thi tình thương cụ thể là tìm kiếm chăm sóc những người cô đơn nghèo khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi.

Một hôm, khi đi thăm một ông lão sống cô đơn trong căn lều tồi tàn bẩn thỉu mà toàn bộ đồ đạc trong nhà là một mớ hỗn độn. Ông ta lại có lối sống khép kín, không muốn trả lời những lời hỏi thăm. Mẹ xin phép ông dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ mà ông cũng làm thinh. Trong lúc dọn dẹp, Mẹ thấy một cây đèn dầu bụi bám đen xì nằm ở góc nhà. Sau khi được lau chùi, Mẹ liền kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá!”. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi sau ngày cưới. Từ khi bà ấy qua đời, tôi cũng không bao giờ đốt đèn lên nữa. Thấy ông đã bắt đầu cởi mở, Mẹ Tê-rê-sa liền đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị em nữ tu mỗi ngày đều đến thăm và đốt đèn cho ông không? Và ông đã đồng ý. Từ ngày đó, vào mỗi buổi chiều, các chị em nữ tu đều thay nhau tới thăm, giúp ông dọn dẹp nhà cửa và nói chuyện với ông. Ngọn đèn bắt đầu cháy sáng trong căn lều sạch sẽ ấm áp. Ông lão cũng trở nên vui vẻ hơn. Ông bắt đầu đi ra ngoài nhà thăm hỏi hàng xóm, và nhiều người cũng đến viếng thăm, khiến con tim của ông lão đã vui trở lại.

Mẹ Tê-rê-sa cứ miệt mài phục vụ người nghèo: Mẹ lập ra những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc giúp họ chết an lành và được chôn cất như một con người. Mẹ lập những trại cô nhi nuôi trẻ mồ côi, xây những bệnh viện và trường học miễn phí. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập ra dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay dòng này đã có mặt trong 132 quốc gia và Mẹ đã được cả thế giới biết đến. Mẹ được trao nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, Mẹ qua đời, đã có 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có cả phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, tuyệt đại đa số dân theo Ấn giáo, vốn không ưa gì đạo Công giáo, đã cho chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang với hai mươi mốt phát súng đại bác để tiễn đưa linh hồn Mẹ Tê-rê-sa về trời.

Mẹ Tê-rê-sa đã định nghĩa thế nào là một nhà truyền giáo: “Đó là một tín hữu Ki-tô say mê Chúa Giê-su đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Tê-rê-sa không những làm cho người ta nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su bằng việc nói về Chúa Giê-su, diễn tả khuôn mặt của Chúa Giê-su bằng cuộc sống yêu thương phục vụ của mình. Như vậy, Mẹ Têrêsa chính là một nhà truyền giáo vĩ đại trong thế kỷ 20, vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn cháy sáng tin yêu giữa bóng đêm hưởng thụ lạc thú bất chính và thù hận chém giết nhau, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn giúp mọi người nhìn nhau là anh em, là con cùng một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa.

2) MỘT BÀI GIẢNG BIẾT ĐI

EN-BỚT SUÝT-DƠ (Enbert Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một BÀI GIẢNG BIẾT ĐI như sau:

Vào một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa Kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới đưc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ EN-BỚT SUÝT-DƠ (Anbert Schweitser), một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.

3) GƯƠNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA MỘT VIÊN GIÁM ĐỐC HÀN QUỐC:

Có một người Hàn quốc đã sang Việt Nam mở một doanh nghiệp làm ăn kinh tế tại thủ đô Hà Nội. Doanh nghiệp của ông có 50 công nhân, trong đó cũng có mấy người Công giáo. Một hôm viên giám đốc hỏi mấy người công nhân Công giáo: Các anh là đạo gốc, thế các anh đã truyền giáo được cho người nào chưa?” Họ trả lời rằng: “Chúng cháu giữ đạo còn chưa xong, làm sao dám nghĩ đến việc truyền giáo cho ai khác được”. Bấy giờ ông chủ Hàn quốc liền nói: “Thế là các cậu đã thua tôi rồi. Tôi chỉ là người tân tòng theo đạo từ khi lập gia đình, và mới sang Việt Nam được 3 năm nay. Thế mà tôi đã mời gọi được hai người Việt Nam học giáo lý để được gia nhập vào đạo công giáo rồi đó”.

3. SUY NIỆM: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN

1) LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:

Hôm ấy, mười một môn đệ Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x.Mt 28,10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ ba điều như sau:

- Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18): Điều này nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giê-su bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).

- Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19): Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su dạy các ông chỉ đi loan báo Tin Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt 10,5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8,5-13); Người đàn bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi đứa con gái của bà (x. Mt 15,28).

- Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20): Ngày xưa Đức Chúa đã hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3,12). Ngày nay, Đức Giê-su cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập về tới Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng sẽ thành công trong sứ mệnh “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người”.

2) TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI, LẮNG NGHE, VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ:

Nhân ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Phan-xi-cô đã dựa theo sách Công Vụ Tông Đồ dạy về tiến trình ba bước loan báo Tin Mừng nhờ ơn Thánh Thần, qua câu chuyện tông đồ Phi-líp-phê thực hiện với viên thái giám người xứ Ê-thi-ô-pi như sau:

- Bước một: “Hãy đứng lên và ra đi”:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê: “Hãy đứng lên và ra đi” (x. Cv 8,26) . Ngày nay, để trung thành với huấn lệnh của Chúa, Hội Thánh cũng phải lắng nghe huấn lệnh của Chúa Giê-su với ơn Thánh Thần thôi thúc, để ra đi loan báo Tin Mừng. Một Hội Thánh không “đứng lên và ra đi” là một Hội Thánh đang suy yếu bệnh tật.

- Bước hai: “Hãy lắng nghe sự thao thức của tha nhân” và chia sẻ niềm vui của Tin Mừng:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê chạy theo xe ngựa của quan thái giám người Ê-thi-ô-pi. Ông quan này đã đi hành hương Giê-ru-sa-lem và đang trên đường về quê nhà. Ông đang đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a. Khi thấy Phi-líp-phê chạy theo xe mình, viên thái giám liền dừng xe mời ông lên xe với mình. Trong câu chuyện, theo yêu cầu của viên thái giám, Phi-líp-phê đã trình bày về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai cho ông. Nhờ được Thần Khí tác động, viên thái giám đã tin vào lời Phi-lip-phê giảng và khi xe ngang qua chỗ có nước, ông đã yêu cầu được nhập đạo. Ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, và được Phi-lip-phê làm phép rửa dìm mình trong nước. Sau đó, Thần Khí đã đưa Phi-líp-phê rời đi nơi khác, còn viên thái giám lại tiếp tục cuộc hành trình về quê nhà trong niềm hân hoan (x. Cv 8,27-40).

Ngày nay Hội Thánh cũng cần phải lắng nghe sự thao thức của con người thời đại để biết họ nghĩ gì muốn gì, rồi tìm cách đáp ứng bằng cách chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho họ.

Tóm lại Đức Phan-xi-cô đã khuyên các tín hữu hãy truyền giáo bằng ba việc: “Hãy đứng lên và ra đi; Hãy lắng nghe thao thức của tha nhân; Hãy chia sẻ niềm vui Tin Mừng của Chúa cho họ”.

3) TRUYỀN GIÁO CHÍNH LÀ TRUYỀN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG

- Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người này lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.

- Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giê-su thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa này cần được tiếp nối không ngừng.

- Thánh Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời những bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng không chủ trương yêu thương chung chung, nhưng là yêu thương từng người cụ thể ngay ở bên mình.

Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian mà ta cần yêu thương trọn vẹn trong giây phút đó.”

Với tâm tình này, Mẹ Tê-rê-sa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức này, Giáo Hội Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mười năm!

Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.

Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như người thân quyến của mình để sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng đến hiệp thông. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối dây thân ái và nhờ đó, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ chiếu sáng như ánh nến trong đêm Vọng Phục Sinh.

4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI TRUYỀN GIÁO NHƯ THẾ NÀO?:

- Đừng “đứng nhìn lên trời”: Hãy xuống núi để chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng bằng việc ăn ở công minh chính trực, chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là bằng thái độ biết nghĩ tới người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với những anh em chưa biết Chúa, để hợp tác cải thiện xã hội và sãn sàng chia sẻ “Chúa là Tình Yêu” cho tha nhân.

- Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Ngày nay, khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh sáng Tin Mừng và có sứ mệnh chiếu ánh sáng đức tin trong môi trường sống là khu xóm, trường học, chợ búa, cơ quan xí nghiệp, và hết mọi nơi. Chu toàn sứ mệnh sống chứng nhân, chia sẻ niềm tin về Chúa Giê-su đã chết và sống lại.

- Hãy lãnh nhận Thánh Thần (x. Ga 20,21-22): Sứ mệnh truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hơn hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh. Để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh truyền giáo, Đức Giê-su đã hứa ban Thánh Thần để giúp Hội Thánh hiểu biết sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7.13). Vào buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giê-su đã hiện đến với các môn đệ và sai các ông giống như Chúa Cha đã sai Người. Người thổi hơi ban Thần Khí cho các ông và phán: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Người hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin cho các ông. Rồi vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã tác động như cơn gió bão ùa vào nhà tiệc ly và đổ ơn Thánh Thần trên đầu mỗi vị (x. Cv 2,1-4). Nhờ ơn Thánh Thần soi dẫn phù trợ mà chỉ sau bài giảng của Tông đồ Phê-rô, đã có tới ba ngàn người tại Giê-ru-sa-lem xin nhập đạo (x. Cv 2,41).

- Hãy kết nghĩa với lương dân:

Năm 1983, khi thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đi thăm Giáo Hội Hàn quốc và tấn phong 103 thánh tử đạo người nước này, thì Giáo Hội Hàn quốc mới chỉ có 3 triệu rưỡi tín hữu. Khi ấy Đức Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ đẩy mạnh công việc truyền giáo bằng hoạt động cụ thể như sau: mỗi gia đình Công giáo Hàn quốc sẽ kết nghĩa với một gia đình lương, và mỗi người tín hữu Hàn quốc cần quyết tâm giới thiệu Chúa cho một anh chị em lương dân.

Sự kết nghĩa thiêng liêng thể hiện bằng việc âm thầm cầu nguyện cho họ, năng thăm viếng giúp đỡ để gây thiện cảm và tìm dịp để giới thiệu Chúa cho họ. Chính công việc này đã mang lại kết quả tốt đẹp: Chỉ sau 10 năm, số tín hữu công giáo Hàn quốc đã tăng lên gấp đôi!

Ngày nay, nếu chúng ta quyết tâm chu toàn sứ mệnh truyền giáo và áp dụng các phương thế của các môn đệ thời Hội Thánh Sơ Khai là: cộng tác với ơn Thánh Thần, hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng lối sống yêu thương cụ thể… thì chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mệnh truyền giáo như Chúa đã truyền dạy: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19); “Hãy nên chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

4. THẢO LUẬN:

Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh như là con trai trưởng phải lo cúng giỗ cha mẹ, nên chưa thể gia nhập đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp họ sống đức tin vào Chúa ? Nếu họ chết khi chưa chịu phép rửa tội, thì họ có được ơn cứu độ không ? (x. Lc 23,40-43).

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...

Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (Theo thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.


Chúa nhật 29 thường niên -A
Chúa nhật truyền giáo

Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô (Mc 16,15-20).

Và Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”.
Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Yêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo.

Suy niệm

Thiên Chúa là một người Cha nhân lành, một người Cha chiều chiều ra đứng đầu ngõ, ngóng chờ những người con trở về, trong đó có những người con tốt lành, thánh thiện, nhưng cũng có những người con tội lỗi, thiếu sự hiếu thảo với người Cha của mình. Chúa nhật 29 thường niên, Mẹ Giáo hội mời gọi con cái hãy cầu nguyện cho việc truyền giáo, đồng thời hãy mở lòng mình ra, đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, để mạnh dạn lên đường, bước vào giữa lòng thế giới, để giới thiệu một khuôn mặt mới của Thiên Chúa cho tha nhân. Ơn gọi đó, trách nhiệm đó không dành riêng cho một ai nhưng là cho mọi người và mỗi người, trong mỗi ơn gọi và mỗi hoàn cảnh hiện tại, đồng thời, người môn đệ đó cần có một đức tin sống động và xác tín, tất cả cộng góp lại, làm cho danh Cha cả sáng, tin mừng cứu độ được gởi đến với mọi người.

Trước những khổ đau vì ảnh hưởng của các dân ngoại bang, đặc biệt là thờ ngẫu tượng, dân riêng của Thiên Chúa phải nhận chịu những hình phạt của Đấng chọn họ làm dân riêng, thế nhưng, Ngài không bỏ họ, còn sai các tiên tri đến hướng dẫn họ cách sám hối và thành tâm thú nhận tội lỗi. Tiên tri Isaia được sai đến với dân Do thái trong bối cảnh tôn giáo ảm đạm, ông đã khích lệ tinh thần với ngày mai đầy hy vọng, với ngày mai sẽ được tha thứ, nếu họ biết thay đổi cuộc đời: “Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.  Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.  Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.  Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông”. Là những người con, nếu họ biết lắng nghe và thay đổi lối sống sa đọa, họ sẽ được sáng chói trong ơn thánh, là nơi dân ngoại tìm về để được sống, được sum vầy trong gia đình Thiên Chúa. Tất cả tùy thuộc vào những nỗ lực và cố gắng của mỗi người và mọi người.

Vì không thể đến thăm từng cộng đoàn huynh đệ, thánh Phaolo, qua lá thư gởi cho người học trò của mình là Ti-mô-thê, đã khích lệ tinh thần những người tín hữu Kitô từ các cộng đoàn, đồng thời, khai mở cho họ thấy được con người mới của họ nếu chấp nhận làm mới bản thân, chính gương sáng đó, là điểm quy tụ các dân tộc về cùng một mái nhà chung của Thiên Chúa: “Người muốn cho mọi người được cứu thoát và được nhìn biết sự thật. Vì chỉ có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: một người, là Ðức Yêsu, Ðấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người; chứng đã tuyên ra vào chính thời chính buổi, mà tôi đã được đặt làm lệnh sứ, làm tông đồ — và tôi nói thật, chứ không nói dối — làm tấn sĩ dân ngoại, trong đức tin, trong sự thật”. Thiên Chúa không nỡ nào đứng nhìn con cái tuyệt vọng trong kiếp nô lệ tội lỗi và sự chết, vì thế, Ngài mời gọi và cũng sai các môn đệ, các con cái của Ngài, hãy loan tin vui cứu độ đó cho mọi dân, mọi nước qua mọi thời và mọi nơi. Ai tin vào Đức Giêsu và chấp nhận để cho Thánh Thần thay đổi, người đó sẽ góp phần đưa anh chị em mình trở về với người Cha nhân lành.

Vâng lời Cha, Đức Giêsu đi vào lịch sử nhân loại trong phận người. Ngài đem theo sứ điệp của Cha là cứu độ tất cả mọi người, mọi thời. Vì thế, trên mọi nẻo đường trần gian, Đức Giêsu luôn nhắc nhở con người hãy sám hối, chỉ dạy cho họ cách đổi thay cuộc đời, hướng dẫn họ con đường trở về với Cha bằng niềm tin. Sau khi chu toàn sứ mạng với mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, Đức Giêsu được Cha thưởng công bằng việc rước về trời. Trước lúc rời xa các môn đệ, Ngài sai họ tiếp tục lên đường, đến với muôn dân, loan báo về ơn cứu độ của Chúa Cha: “Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội”. Để được cứu độ, điều kiện đầu tiên là phải tin. Tin vào một Thiên Chúa duy nhất, tin vào tình thương cứu độ của Cha trên trời. Thứ đến là dám thay đổi chính mình, trở nên con người mới trong ân sủng Thánh Thần. Tất cả sẽ là động lực và sức mạnh cho tin mừng đến với muôn dân.

Đức Giêsu, có thể nói là nhà truyền giáo đầu tiên, đã vâng lời Chúa Cha lên đường đi vào thế giới. Ngài loan tin vui cứu độ cho mọi người: Nước Thiên Chúa đã gần đến, hãy sám hối và tin vào tin mừng. Đó là sứ điệp của Ngài mang theo khi vào trần gian. Nhà truyền giáo tiên phong này đã can đảm từ bỏ chính mình, tất cả cho Thiên Chúa lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại, trước sứ vụ mới của mỗi ngày, Ngài cầu nguyện để tìm thiên ý. Ngài còn chọn gọi các học trò, hướng dẫn họ phương cách làm chứng tin mừng cứu độ. Trước khi về trời, Ngài chính thức sai họ lên đường, tiếp nối sứ vụ của Ngài, đem ơn cứu độ đến cho muôn dân. Có thể nói, mẫu người của nhà truyền giáo đích thực trước hết là cầu nguyện xin Chúa Cha hướng dẫn, thứ đến là dùng khả năng, tài lực và điều kiện hiện tại, để giới thiệu một tin mừng tình yêu cho thế giới.

Các Tông đồ cũng như các môn đệ, đều được sai đến với muôn dân, tin mừng được lan tỏa nhẹ nhàng nhưng sâu đậm. Thế hệ các ngài qua đi, những môn đệ trong gia đình Giáo hội, tiếp tục sứ mạng đó, trong đó có những người giáo dân cũng như các Tu sĩ. Tất cả đều được sai đi mỗi ngày trong từng ơn gọi và mỗi hoàn cảnh họ đang hiện diện. Khởi đầu phải là cầu nguyện, bởi đó là chương trình của Chúa Cha, con người được cộng tác, vì thế, Chúa Cha mong muốn thế nào trong hoàn cảnh hiện tại, Chúa Cha mong đợi nhà truyền giáo phải làm gì và sống thế nào với anh chị em, nơi họ được gởi đến. Thứ đến, tất cả cùng chung chia trọng trách lớn lao đó. Cộng góp sức lực, phương tiện và mọi khả năng, để đi tới từng tâm hồn, từng mái ấm gia đình, từng dân tộc đó đây, để giới thiệu một Thiên Chúa nhân lành, đã và đang yêu thương họ, muốn họ tin nhận và được cứu độ. Phải làm sao để cho Thiên Chúa lớn lên, còn tôi thì nhỏ lại. Đó là thao thức lớn mà người chứng nhân cần lưu tâm và trăn trở.

Mỗi ngày, người tín hữu Kitô đều được sai đi loan tin vui cứu độ cho tha nhân. Họ được sai đi lúc nào? đó là lúc họ tham dự Thánh lễ khởi đầu ngày mới. Kết thúc Thánh lễ là lời sai đi của chủ tế: Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em lên đường bình an. Lên đường ở đây không phải là tham gia giao thông đúng luật và không gây tai nạn, lên đường bình an ở đây được hiểu là lên đường giới thiệu một Thiên Chúa mà bạn vừa tuyên xưng trong Thánh lễ, Thiên Chúa đó đã chết cho bạn, nhưng nay đang sống để ban bình an và sự sống cho bạn. Mỗi ngày, Thiên Chúa đó dọn một bàn tiệc sự sống, mời mọi người tham dự, bất luận đó là ai. Từ bàn tiệc Thánh lễ, mỗi người được mời hướng về bàn tiệc Thiên Quốc, bàn tiệc sự sống đời đời. Đó là lời sai đi được gởi tới cho mọi tín hữu Kitô, khi họ tham dự Thánh lễ. Hành trang của họ không phải là bao bị, giày dép, không phải là mũ áo, không phải là bằng cấp, hay tiền bạc dư dật, nhưng là bí tích Thánh Thể, nguồn lương thực thiêng liêng cho mọi người, đặc biệt cho nhà truyền giáo trên mọi cánh đồng, chính nguồn lương thực thiêng liêng này, giúp nhà truyền giáo cũng như mọi người, vượt thắng mọi khó khăn, đi qua những miền đất tối tăm, can đảm đến với những người khó khăn, đặc biệt là những người nghèo khó và bị bỏ rơi giữa thế giới.

Lạy Chúa, bất cứ ai trong phẩm trật nào, hay ơn gọi nào đều được sai đi truyền giáo, xin cho chúng con học hỏi nơi nhà truyền giáo ưu tú là chính Chúa Giêsu, để chúng con tìm thấy thánh ý Cha muốn, để chúng con lên đường, tiến vào giữa lòng thế giới. Khởi đầu một ngày mới, Chúa luôn trò chuyện với Cha để biết Ngài sai đi tới đâu và làm gì, xin giúp chúng con biết cầu nguyện nhiều và nhiều hơn nữa cho việc truyền giáo, để chương trình cứu độ con người sớm được viên mãn, mọi người ở mọi thời và mọi nơi đều được mời tới dự tiệc hằng sống trong Nước Trời mai sau. Amen.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây