Lời Chúa THỨ BẢY TUẦN 33 THƯỜNG NIÊN

Thứ sáu - 14/11/2025 13:55 |   5
“Con cái Thiên Chúa là con cái của sự sống lại… vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,27-40)

22/11/2025
Thứ bảy tuần 33 THƯỜNG NIÊN
Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo

t7 t33 TN

Lc 20,27-40


đời sau có gì khác đời này?
“Con cái Thiên Chúa là con cái củ
a s sng livì đi vi Người, tt c đu đang sng. (Lc 20,27-40)

Suy niệm: Đối vi người Ki-tô hu tin có đời sau, hôn nhân trong thế gii mai sau y có khác vi hôn nhân ti thế này không? Thưa, khác nhau hoàn toàn. Đời sau không còn chuyn dng v g chng (c. 34); người ta không chết na, mà sng như thiên thn (c. 36). Như vy, chuyn sng đời hôn nhân v chng ch dành cho cuc sng trn thế hôm nay, còn trong hnh phúc thiên đàng, mi người đều là người thân ca tôi, đều là anh em ch em vi mình. Tt c các thánh trên thiên quc được biến đổi như thiên thn, vui hưởng hnh phúc bên Chúa và bên nhau, là nhng to vt tt lành, đẹp lòng Thiên Chúa. Mc khi này ca Chúa Giê-su đánh tan ý nghĩ đời sau là bn sao ca cuc sng trn gian hôm nay, dương sao âm vy, nhưng m ra mt thế gii mi, thế gii ca Thiên Chúa, hoàn toàn khác vi mô hình trt t cũ ca đời tm này.

Mời Bn: S biến đổi sang tình trng mi ca thiên quc là điu hp lý, không ai có th lt da sng đời, nhưng phi qua mt giai đon chuyn tiếp là cái chết, để bước vào mt s sng trn vn, vĩnh cu, khác vi s sng th lý mau qua chóng tàn hôm nay. Vn đề là bn phi chun b cho cuc sng mai sau y ngay trong cuc sng hôm nay. Bn đã và s làm gì để chun b, bt đầu cho s sng vĩnh cu ấy?

Sống Li Chúa: Tôi chn mt câu Li Chúa làm kim ch nam cho đời này, chun b cho cuc sng như thiên thn ca cuc đời mai sau, n lc hết mình vi câu Li Chúa ấy.

Cầu nguyn: Ly Chúa, con tin xác loài người ngày sau sng li, con tin hng sng vy. Amen (Kinh Tin kính).

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thứ bảy tuần 33 THƯỜNG NIÊN

Ca nhập lễ

Chúa phán: Ta nghĩ đến bình an, chớ không nghĩ đến gian khổ; các người kêu cầu Ta, và Ta nhậm lời các ngươi, Ta dẫn dắt các ngươi từ mọi nơi các người bị nô lệ trở về.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa là nguồn phát sinh mọi điều thiện hảo, được phụng sự Chúa quả là một hạnh phúc tuyệt vời: xin cho chúng con tìm được niềm vui khi hết dạ trung thành với Chúa. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Mcb 6, 1-13

“Vì các tai họa trẫm đã gây cho Giê-ru-sa-lem mà trẫm phải buồn bực mà chết”.

Trích sách Ma-ca-bê quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, vua An-ti-ô-cô rảo khắp các tỉnh miền bắc. Vua nghe nói tại Ba-tư có thành Êlymai nổi tiếng là giàu có và lắm vàng bạc; trong thành lại có một ngôi đền thờ lắm bảo vật, đầy những binh giáp bằng vàng, chiến bào, khiên mộc di sản của A-le-xan-đrô, con Phi-líp-phê, vua xứ Ma-cê-đô-ni-a, là vua tiên khởi cai trị dân Hy-lạp. Vậy ông đến tìm cách chiếm lấy thành để cướp của. Nhưng ông không thành công, vì dân thành đã biết trước ý định của ông, nên đã vùng lên chống lại. Ông bỏ chạy và buồn bực lui quân trở về Babylon.

Lúc vua còn ở Ba-tư, có người đến đem tin cho vua hay toán quân của ông ở Giuđa đã bị đánh bại chạy tán loạn, và Lysia, vị tướng chỉ huy một đoàn quân hùng hậu, cũng đã phải tháo lui chạy trốn quân Do-thái; quân Do-thái lại càng mạnh thêm nhờ ở khí giới, lương thực và chiến lợi phẩm rất nhiều đã lấy được của các đoàn quân họ đánh bại. Họ đã hạ tượng thần vua đã đặt trên bàn thờ ở Giêrusalem; họ cũng đã xây thành đắp luỹ cao như trước chung quanh Ðền thờ và chung quanh thành Bethsura.

Nghe tin ấy, nhà vua khiếp đảm và rất xúc động. Vua vật mình xuống giường và buồn đến lâm bệnh, (bởi vì) sự việc đã không xảy ra như vua ước muốn. Vua liệt giường nhiều ngày, càng ngày càng buồn. Và tưởng mình sắp chết, vua liền triệu tập tất cả bạn hữu lại mà nói với họ rằng: “Trẫm không còn chớp mắt được nữa và lòng trẫm tan nát vì ưu tư. Trẫm tự nghĩ: trước kia khi trẫm còn quyền thế, trẫm vui sướng và được người ta quý mến, mà giờ đây trẫm lâm cảnh buồn sầu và đau khổ biết bao! Bây giờ trẫm hồi tưởng lại các tai hoạ trẫm đã gây cho Giêru-salem: trẫm đã chiếm đoạt các chén bằng vàng bạc tại đó, và đã ra lệnh tiêu diệt dân Giuđêa cách vô cớ. Trẫm nhìn nhận là vì các việc ấy mà phải khốn khổ như thế này, mà giờ đây trẫm phải buồn bực mà chết nơi đất khách quê người”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 9, 2-3. 4 và 6. 16b và 19

Ðáp: Lạy Chúa, con mừng rỡ vì ơn Ngài cứu độ

Xướng: Lạy Chúa, con sẽ ca tụng Chúa hết lòng, con sẽ kể ra mọi điều lạ lùng của Chúa. Con sẽ mừng rỡ hân hoan trong Chúa, con sẽ đàn ca danh Ngài, lạy Ðấng Tối Cao.

Xướng: Vì quân thù của con đã tháo lui, chúng chạy trốn và vong mạng trước thiên nhan Chúa. Chúa trách phạt chư dân, diệt vong đứa ác, bôi nhoà tên tuổi chúng tới muôn đời.

Xướng: Người chư dân rơi chìm xuống hố mà họ đã đào, chân họ mắc vào cạm bẫy mà họ đã che. Vì kẻ cơ bần không bị đời đời quên bỏ, hy vọng người đau khổ không mãi mãi tiêu tan.

Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 11, 4-12

“Hai vị tiên tri ấy đã làm cho dân trên hoàn cầu chịu nhiều khổ cực”.

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.

Có lời phán cùng tôi là Gioan rằng: “Hai chứng tá của Ta là hai cây ôliu và hai cây đèn đặt trước mặt Chúa Tể địa cầu. Và nếu ai toan hãm hại các ngài, thì sẽ có lửa từ miệng các ngài phun ra tiêu diệt các địch thù; ai toan làm hại các ngài thì chính kẻ ấy phải bị giết như vậy. Các ngài có quyền đóng cửa trời, khiến trời không mưa trong những ngày các ngài nói tiên tri. Các ngài lại có quyền biến nước thành máu, và gieo tai hoạ cho trần gian bất cứ lúc nào tùy ý. Và khi các ngài đã hoàn tất nhiệm vụ chứng tá rồi, thì con mãnh thú từ vực thẳm lên sẽ giao chiến với các ngài, nó sẽ thắng và giết chết các ngài. Thi thể các ngài sẽ bị bêu nơi công trường của Thành lớn, gọi cách bóng bảy là Sôđôma và Ai-cập, là nơi Chúa các ngài đã bị đóng đinh. Thiên hạ thuộc mọi chi tộc, mọi dân, mọi nước, và mọi ngôn ngữ, đã xem thấy thi thể các ngài trong ba ngày rưỡi, và người ta không để cho thi thể các ngài được chôn cất trong mộ. Dân chúng trên khắp mặt đất sẽ vui mừng vì cái chết của các ngài và hoan hỉ tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã từng làm cho họ chịu nhiều khổ cực. Nhưng sau ba ngày rưỡi, (sinh khí từ) Thiên Chúa nhập vào các ngài. Và các ngài đứng dậy, khiến cho những người trông thấy phải khiếp sợ. Rồi các ngài nghe có tiếng vang lớn từ trời phán cùng các ngài rằng: ‘Hãy lên đây’. Các ngài liền lên trời, trong đám mây trước mắt các địch thù của các ngài.

Chính lúc đó đất chuyển động dữ dội, và một phần mười của thành thị bị sụp đổ, làm bảy ngàn người thiệt mạng trong cơn động đất ấy. Còn các người sống sót thì kính sợ và cao rao vinh danh Ðức Chúa Trời”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 143, 1. 2. 9-10

Ðáp: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa! (c. 1a).

Xướng: Ôi Ðá Tảng của con, chúc tụng Chúa là Ðấng rèn luyện cho tay con biết đấu tranh, cho các ngón tay con thiện nghề chinh chiến. 

Xướng: Chúa là tình thương và là chiến luỹ, là Ðấng phù trợ và giải phóng con. Chúa là khiên thuẫn, là chỗ con nương náu; Ngài bắt chư dân phải khuất phục con. 

Xướng: Ôi Thiên Chúa, con sẽ hát mừng Ngài bài ca mới; với cây đàn mười dây, con sẽ ca mừng Ngài, vì Ngài đã ban cho các vua chiến thắng, đã giải phóng Ðavít là tôi tớ của Ngài.

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! – Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. – Alleluia.

Hoặc đọc

 Alleluia, alleluia! – Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh.- Alleluia.

Phúc Âm: Lc 20, 27-40

“Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng của kẻ sống”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Lu-ca.

Khi ấy, có mấy người thuộc phái Sa-đốc, là những người chối không tin có sự sống lại, đến gần Chúa Giê-su hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Mô-sê đã viết cho chúng tôi: nếu ai có một người anh cưới vợ, rồi chết đi mà không có con, thì người em phải cưới người vợ đó để anh mình có kẻ nối dòng. Vậy có bảy anh em: người thứ nhất cưới vợ, rồi chết mà không có con. Người kế tiếp cưới vợ goá đó, rồi cũng chết không con. Người thứ ba cũng cưới người vợ góa đó. Và tất cả bảy người đều cưới như vậy và đều chết mà không để lại người con nào. Sau cùng người thiếu phụ đó cũng chết. Vậy đến ngày sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ ai trong các người ấy, vì tất cả bảy người đều lấy người ấy làm vợ?”

Chúa Giê-su trả lời rằng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng; họ sẽ không thể chết nữa, vì họ giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa: vì họ là con cái của sự sống lại. Về vấn đề kẻ chết sống lại, thì Mô-sê trong đoạn nói về Bụi gai, khi ông gọi Chúa là Thiên Chúa Áp-ra-ham, Thiên Chúa I-sa-ac, và Thiên Chúa Gia-cóp. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của kẻ sống, vì mọi người đều sống cho Chúa”.

Bấy giờ có mấy luật sĩ lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy thầy, Thầy dậy đúng lắm”. Và họ không dám hỏi Người điều gì nữa.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, chúng con thành kính dâng lên Chúa lễ vật này, xin vui lòng chấp nhận, và giúp chúng con trung thành phụng sự Chúa, để mai ngày đạt tới phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Việc tôi kết hợp với Thiên Chúa, và việc tôi đặt niềm cậy trông vào Chúa là Thiên Chúa, thì tốt đẹp biết bao.

Hoặc đọc:

Chúa phán: Thầy bảo thật các con: Tất cả những gì các con cầu xin, hãy tin rằng các con sẽ được, thì các con sẽ được những điều đó.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, chúng con vừa cử hành lễ tế tạ ơn để tưởng nhớ Ðức Kitô Con Chúa, như lời Người truyền dạy, và chúng con đã được rước Mình và Máu Thánh Người; cúi xin Chúa nhận lời chúng con khẩn nguyện và ban cho chúng con được thêm lòng yêu mến. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

KẺ CHẾT SỐNG LẠI (Lc 27-40)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

1. Nhóm luật sĩ và biệt phái tin có sự sống lại, còn nhóm Sa-đốc thì không. Mặc dầu nhóm Sa-đốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như ở đời này. Nhưng Đức Giê-su đã mạc khải cho họ có sự sống lại và cách thức sống cuộc sống đời sau. Ngài cho thấy cuộc sống ấy không còn giống như ở đời này, không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian. Trái lại, cuộc sống của người công chính khi phục sinh sẽ được thần thiêng hóa như đời sống của các thiên thần.

2. Hôm nay, nhóm Sa-đốc đã đứng lên để bàn mưu tính kế nhằm hại Đức Giê-su. Cái bẫy mà họ đưa ra chính là câu chuyện liên quan đến sự sống lại. Vấn nạn mà họ đặt ra cho Đức Giê-su và yêu cầu Ngài trả lời: theo luật Mai-sen, nếu người anh lấy vợ, khi chết đi mà chưa có con, thì người em phải lấy vợ của anh mình để có con nối dõi. Vậy cả 7 anh em nhà kia lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết, sau cùng người đàn bà kia cũng chết. Vấn đề đặt ra là: khi sống lại, người đàn bà kia sẽ là vợ của người nào trong 7 anh em đó?

3. Để trả lời cho họ, Đức Giê-su trưng dẫn sách Ngũ Kinh như ông Mai-sen đã gọi: ”Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống”. Thiên Chúa là sự sống. Ngài ban và duy trì sự sống ngay cả sau khi chết.

Đức Giê-su luôn luôn từ chối trả lời theo khôn ngoan thế gian, nhưng người đứng trên phương diện khác để trả lời. Câu chuyện của Sa-đốc đặt ra là giả tưởng, không có thật. Sự sống đời sau khi sống lại không như nhiều người Do-thái tưởng là sự nối tiếp sự sống đời này. Nhưng, “những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau” và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ gả chồng, quả thật họ không thể chết nữa, vì họ được sống như thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa.

4. Đức Giê-su còn trả lời thêm cho biết trật tự, cách tổ chức, cách thế hiện hữu của cuộc sống mai hậu không giống như cuộc sống đời này. Không thể lấy kinh nghiệm hiện hữu của cuộc sống này để áp dụng vào việc suy đoán cách hiện hữu của cuộc sống mai hậu. Đời này có lấy vợ gả chồng chỉ là chuyện sinh, lão, bệnh, tử, nên cần phải có người giúp đỡ, phục vụ và nối dõi. Khi con người đã trở thành bất tử, họ không còn sống phụ thuộc vào không gian và thời gian nữa, vì thế, họ cũng không cần phải cưới vợ gả chồng. Họ sẽ bước vào cuộc sống thần thiêng như các thiên thần, cuộc sống của họ lúc này là trường sinh bất tử, sung mãn, trọn vẹn và tồn tại muôn đời với Đấng Hằng Hữu. Công việc của họ chính là ca ngợi Chúa trong vinh quang Nước Trời như các thiên thần, được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa (Hiền Lâm).

5. Nói chung, trên mọi bình diện, mọi lý luận chỉ dựa trên công sức trí khôn con người, thì không thể nào dẫn dắt đến sự nhìn nhận niềm tin vào sự sống lại. Đức Giê-su đã quả quyết mạnh mẽ vì sự thật có sự sống lại, nhưng Chúa không giải thích cho biết sự việc sẽ xảy ra như thế nào và cũng không nói về thời gian khi nào sẽ xảy ra biến cố sống lại. Có thể là hai câu hỏi như thế nào và vào lúc nào là hai điều không quan trong cho ơn cứu rỗi, nên Đức Giê-su đã không giải thích, không mạc khải gì thêm. Không phải chỉ có lời quả quyết suông của Chúa mà thôi, nhưng chúng ta còn có sự kiện cụ thể khác nữa, đó là chính sự sống lại của Đức Giê-su Ki-tô. Đức Ki-tô Phục sinh là câu trả lời duy nhất cho thắc mắc của con người về cái chết, về sự sống lại và sự sống đời đời (R. Veritas).

6. Tất cả cuộc sống chúng ta đều xây dựng trên niềm tin vào sự sống lại của Đức Giê-su và sự sống mai hậu. Tất cả những nỗ lực xây dựng công bằng bác ái của chúng ta chỉ có ý nghĩa là bởi vì chúng ta tin vào cuộc sống vĩnh cửu và sự sống lại.

7. Truyện: Kinh nghiệm cận tử.

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ Đức và Mỹ đã rất chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau:

– Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Cêcilia, trinh nữ, tử đạo

Ca nhập lễ
Chúng ta hãy vui mừng và hân hoan, vì Chúa muôn loài đã yêu thương trinh nữ thánh thiện và hiển vinh.

Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính thánh Xê-xi-li-a, chúng con đến dâng lời khẩn nguyện: vì lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng con được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I
Phụng vụ Lời Chúa – (theo ngày trong tuần)

Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chúng con ca tụng Chúa đã làm những việc kỳ diệu nơi thánh trinh nữ Xê-xi-li-a xin vui lòng chấp nhận lễ tế chúng con thành kính dâng lên Chúa và xin ban cho chúng con trung thành phụng sự Chúa suốt cả cuộc đời. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ
Người trinh nữ khôn ngoan đã chọn lấy phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất.

Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã ban lương thực bởi trời để chúng con được thêm sức mạnh. Xin cũng giúp chúng con, biết noi gương sáng của thánh trinh nữ Xê-xi-li-a là chỉ sống cho Chúa khi mang trong thân mình cuộc thương khó của Chúa Kitô. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.


Suy niệm

Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Thánh Cécilia được tôn sùng như một trong các vị thánh tử đạo nổi tiếng nhất của Hội Thánh thời sơ khai, và việc sùng kính ngài đã được chứng thực ngay từ năm 545 ở Rôma. Thực vậy, theo Liber Pontificalis, Đức giáo hoàng Virgilê đi đến vương cung thánh đường thánh Cécilia ở Transtevere ngày 22 tháng 11 năm ấy, ngày kỷ niệm cuộc tử đạo của thánh nữ. Cũng vào thế kỷ VI này, trong nhà thờ thánh Apollinare Nuovo ở Ravenne, người ta vẽ cảnh thánh Cécilia đi rước giữa các trinh nữ. Vào thế kỷ V xuất hiện câu truyện truyền thuyết về đời sống và cuộc tử đạo của thánh Cécilia: Cuộc Tử nạn của Cécilia, Valérien và Tiburce. Có vẻ như tài liệu này đã lấy một giai thoại trong cuộc bách hại của quân Vandales ở Châu Phi (cuối thế kỷ V) để kể về Rôma và chắc chắn là một sự pha trộn của truyền thuyết và lịch sử, nhưng chính nhờ tài liệu Cuộc Tử nạn này mà hình ảnh trong trắng, quảng đại và anh hùng của thánh Cécilia đã trở nên vô cùng rực rỡ trong toàn thể Hội Thánh. Tên của ngài cũng được đọc trong Lễ Qui Rôma.

Những điểm sau đây có vẻ là chắc chắn:

– Cécilia xuất thân từ gia đình quí tộc Rôma gọi là Caecilii, gia đình này có một thửa đất trên đường Appia mà thánh Calliste, sau này trở thành giáo hoàng năm 217, đã làm một nghĩa địa năm 210.

– Thánh nữ đã dâng cúng nhà mình ở khu phố Rôma Transtévère cho Hội Thánh sử dụng. Một vương cung thánh đường trên đường Transtévère được xây dựng để dâng kính thánh Cécilia.

– Cécilia là một Kitô hữu đã quyết định thánh hiến đời mình cho Chúa Kitô trong bậc sống trinh nữ. Theo truyền thuyết, bị cha mẹ ép buộc, ngài lấy một thanh niên ngoại giáo tên là Valérien, anh được ngài cải hóa trở lại Kitô giáo, tôn trọng sự đồng trinh của ngài, và anh cũng được tử đạo với em trai mình là Tiburce.

– Sách Cuộc Tử nạn kể rằng “khi tới ngày cưới, trong khi đàn nhạc nổi lên, Cécilia ca hát trong lòng cho một mình Chúa Giêsu.” Từ chi tiết này của câu truyện, từ thế kỷ XV, truyền thống đã gọi thánh Cécilia là quan thầy của các ca sĩ và nhạc sĩ. Cũng vì thế các tranh ảnh thánh thường vẽ thánh Cécilia gảy đàn và ca hát, chung quanh có các thiên thần (các bức hoạ của Le Dominiquin, le Guerchin ở Louvre; Nicolas Poussin ở Prado; Rubens ở Berlin; Véronèse ở Vienne).

– Truyện kể về Cuộc Tử nạn của thánh Cécilia mô tả cuộc tử đạo với nhiều yếu tố truyền thuyết, nhưng giàu ý nghĩa thần học và thiêng liêng. Theo truyền thống, thi thể của thánh nữ được đặt trong hang tử đạo thánh Caliste, gần hang mộ của các giáo hoàng, và một bản sao bức tượng của Maderna ngày nay được đặt trong lăng mộ ngài mô tả tư thế của ngài: thánh nữ nằm nghiêng đầu, với những vết búa của những tên đao phủ, các ngón tay của ngài chỉ dấu Ba Ngôi (một và ba). Hiện nay thi thể của thánh nữ tử đạo an nghỉ trong vương cung thánh đường mang tên ngài tại Rôma; thánh đường này được Đức giáo hoàng Pascal I († 824) xây dựng.

Thông điệp và tính thời sự

Phụng vụ của thánh lễ kính nhớ thánh Cécilia trinh nữ tử đạo gợi lên những chủ đề về sự tử đạo và sự trinh khiết.

Bài đọc I (Kh 19, 5-9), với các lời: Một thiên thần nói với tôi: Hãy viết lời này: Hạnh phúc những ai được mời dự tiệc cưới Chiên Con, trình bày Chúa Kitô như là phu quân của Hội Thánh. Chết vì Chúa Kitô, tức là được dự tiệc cưới Chiên Con. Và tác giả cuốn Cuộc Tử nạn của Cécilia, Valérien và Tiburce viết: “Người ta trông thấy các ngài chạy đến với cái chết như đến một bữa tiệc.”

Bài Tin Mừng (Mt 19, 3-12) ca ngợi những giá trị của bậc trinh khiết thánh hiến: … Có những người đã chọn không kết hôn vì Nước Trời…

Sách Hạnh tử đạo của thánh Cécilia– cũng là một bài thơ ca ngợi sự trinh khiết Kitô giáo – kể lại những lời thánh nữ nói vào đêm tân hôn với Valérien: “Chàng trai xinh đẹp, em tiết lộ cho anh điều này: không bàn tay phàm tục nào được chạm tới em, vì em được một thiên thần canh giữ. Nếu anh tôn trọng em, ngài sẽ yêu mến anh giống như ngài yêu em, và ơn sủng của ngài sẽ đổ xuống trên anh.” Theo truyền thống, Valérien đã cam kết tôn trọng đức đồng trinh của vợ mình, và sau khi được cải hóa theo đức tin của Célicia, “chàng cũng được về trời với nhành vạn tuế tử đạo.”

Điệp ca của Magnificat lấy cảm hứng từ sách Hạnh tử đạo của thánh nữ, hát rằng: “Thánh Cécilia mang trong lòng mình Tin Mừng Chúa Kitô; ngày đêm ngài trò chuyện với Thiên Chúa.” Sự thân mật với Lời Chúa và đồng thời với lời cầu nguyện liên tục diễn tả rõ nét đặc trưng của sự thánh thiện Kitô giáo.

Giờ Kinh Sách đề nghị suy niệm một bản văn rất hay của thánh Augustin về Tv 32: “Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt. Nào dâng Chúa một khúc tân ca, rập tiếng hoan hô nhã nhạc vang lừng.”

Truyền thống đã làm cho thánh nữ Cécilia trở thành người gợi lên sự hoà điệu của âm giọng, bài hát và thánh nhạc. Nhiều nhà soạn nhạc đã tôn kính ngài như thế. Đức Giáo Hoàng Piô IX đã sáng lập Hàn Lâm Viện thánh Cécilia (1847). Và các ban hợp xướng mang tên “Cécilia”, xuất phát từ Ratisbone năm 1867, cũng được đặt dưới sự bảo trợ của thánh nữ tử đạo này. Theo lời thánh Augustin, vì Thiên Chúa là Đấng không thể diễn tả nổi, nên bạn hãy để cho lòng bạn ca mừng mà không cần lời nói, và đừng để cho niềm vui vô biên của bạn bị giới hạn bởi những âm tiết. Hãy hát cho hay, với tiếng reo hò vui sướng.”

Enzo Lodi


THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG
(THỨ BẢY - THÁNH XÊXILIA 22/11)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Xêxilia, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhân ngày lễ kính thánh Xêxilia, chúng ta đến dâng lời khẩn nguyện: Vì lời thánh nữ chuyển cầu, xin cho chúng ta được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa. Cuối thế kỷ V, câu chuyện về cuộc thương khó của các chứng nhân tử đạo Xêxilia, Valêrianô và Tibuốc đã ca ngợi đức đồng trinh của Kitô giáo, khiến cho tên tuổi của một thiếu nữ người Rôma tên là Xêxilia trở thành lừng lẫy. Chị đã chịu tử đạo và được mai táng ở nghĩa trang Calíttô. Một thánh đường đã được xây dựng để kính thánh nữ và một đoản văn trong câu chuyện trên đã khiến cho các nhạc sĩ chọn chị làm bổn mạng.

Xin được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa, sau khi được Chúa thánh hiến qua những cuộc chiến khốc liệt, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Dacaria: Bấy giờ Đức Chúa sẽ là Vua cai trị toàn cõi đất. Đằng sau cuộc chiến giữa thiện và ác, cuộc chiến do Thiên Chúa dẫn đầu, ngôn sứ đã nhìn thấy hậu quả của ngày toàn thắng. Các địch thù thâm căn cố đế của Thành Thánh sẽ bị tan rã, trong khi đó, những người được cứu chuộc, kể cả người ngoại giáo, sẽ được thánh hiến cho Thiên Chúa… Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra cho nhà Đavít và dân cư Giêrusalem, để tẩy trừ tội lỗi. Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Chúa. Tức thì máu cùng nước chảy ra.

Xin được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa, bằng một bài ca mới với con người mới, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài diễn giải Thánh Vịnh của thánh Autinh: Hãy hát cho hay bằng tiếng reo vui để mừng Chúa… Miệng con chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh. Theo nhịp đàn mừng Chúa, miệng con sẽ reo hò. Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa, đàn hát kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.

Xin được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa, vì đã được Chúa thương giải cứu khỏi quân thù, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Macabê Quyển I: Chính vì những hành vi tàn bạo tôi đã làm ở Giêrusalem mà tôi phải chịu buồn phiền vô hạn. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 9: Lạy Chúa, con hoan hỷ vì được Ngài cứu thoát. Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, kể ra đây muôn việc lạ Chúa làm. Mừng Ngài, con hân hoan nhảy múa, đàn hát kính danh Ngài, lạy Đấng Tối Cao.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Đấng Cứu Độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường sinh. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Đức Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống. Đức Kitô đã tiêu diệt thần chết, Thiên Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống. Ý của Chúa Cha là chúng ta tin vào Con của Người, để được sống đời đời. Chư dân sẽ sa vào hố chúng đào, chân mắc lưới chính chúng giăng sẵn, nhưng, người túng thiếu không mãi bị bỏ quên, kẻ nghèo khổ chẳng tuyệt vọng bao giờ. Chúng ta hoan hỷ vì được Chúa cứu thoát: Chính vì những hành vi tàn bạo, mà vua Antiôkhô đã làm ở Giêrusalem, đã khiến ông phải chịu buồn phiền vô hạn, trước khi ông chết. Hãy tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm; kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt. Nào dâng Chúa một bài ca mới. Hãy hát mừng Người bằng tiếng reo vui. Thoạt đầu, ta vui mừng hân hoan, nhờ những lời của bài ca, sau đó, ta như đầy tràn một niềm vui lớn lao, đến nỗi, không thể diễn tả bằng lời, nên, ta không dùng lời nữa, mà, chuyển sang tiếng reo vui. Tâm hồn cứ hân hoan,không cần lời, để niềm vui vô biên không bị ngôn từ giới hạn, vì, Đấng không gì diễn tả được là Đấng ta không thể nói lên được bằng lời. Nhờ lời thánh nữ Xêxilia chuyển cầu, ước gì chúng ta được xứng đáng hát mừng danh thánh Chúa. Ước gì được như thế!

PowerPoint-t7-t33-TN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây