[Tông du Libăng] Diễn văn của Đức Thánh Cha trước chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn
Lúc 18g00 ngày 30/11, Đức Thánh Cha gặp khoảng 400 đại diện chính trị, tôn giáo, ngoại giao, văn hóa và kinh tế. Buổi gặp mở đầu bằng lời chào mừng của Tổng thống Libăng. Tổng thống nhấn mạnh ý nghĩa sâu xa của việc Đức Thánh Cha chọn Libăng làm điểm đến đầu tiên trong triều giáo hoàng, xem đó là dấu chỉ củng cố hy vọng cho quốc gia đang chịu nhiều thử thách. Sau đó Đức Thánh Cha đáp lại bằng một diễn văn về hoà bình.
DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA
Gặp gỡ các Giới chức chính quyền, đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn Beirut, Phủ Tổng thống
30 tháng 11 năm 2025
Ngài Tổng thống Cộng hòa,
Các Vị Lãnh đạo Dân sự và Tôn giáo,
Các Thành viên của Ngoại giao đoàn,
Quý vị thân mến
Phúc thay ai xây dựng hòa bình!
Thật là niềm vui lớn lao được gặp gỡ quý vị và thăm viếng mảnh đất này, nơi “hòa bình” không chỉ là một từ ngữ: ở đây, hòa bình là một khát vọng và là một ơn gọi, là một món quà và là một công trường luôn rộng mở. Quý vị là những người được trao trách nhiệm trong đất nước này, mỗi người trong phạm vi và vai trò cụ thể của mình. Trong cái nhìn về quyền bính ấy mà tôi muốn gửi đến quý vị lời của Chúa Giêsu – câu được chọn làm nguồn cảm hứng cho toàn bộ chuyến viếng thăm này của tôi: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình!” (Mt 5,9). Dĩ nhiên, có hàng triệu người Libăng, ở đây cũng như trên khắp thế giới, đang âm thầm phục vụ hòa bình ngày qua ngày. Nhưng đối với quý vị, những người mang trọng trách thể chế quan trọng trong lòng dân tộc này, mối phúc đặc biệt này được dành cho quý vị, nếu quý vị có thể nói rằng mình đã đặt mục tiêu hòa bình lên trên mọi sự. Trong cuộc gặp gỡ này, tôi mong được suy tư với quý vị về ý nghĩa của việc trở thành người xây dựng hòa bình giữa những hoàn cảnh rất phức tạp, xung đột và bấp bênh.
Ngoài vẻ đẹp thiên nhiên và sự phong phú văn hóa của Libăng, vốn đã được ca ngợi bởi tất cả các vị tiền nhiệm của tôi từng đến thăm đất nước này, còn có một phẩm chất đặc biệt rạng ngời của người Libăng: quý vị là một dân tộc không gục ngã, nhưng trước các thử thách luôn biết trỗi dậy với lòng can đảm. Sự kiên cường của quý vị là một đặc điểm không thể thiếu của những người xây dựng hòa bình đích thực: thật vậy, công trình hòa bình luôn là một sự khởi đầu mới không ngừng. Việc dấn thân và tình yêu dành cho hòa bình không biết sợ hãi trước những thất bại bề ngoài, không bị khuất phục trước những thất vọng, nhưng biết nhìn xa, và biết đón nhận, ôm lấy mọi thực tại với niềm hy vọng. Để xây dựng hòa bình, cần có sự bền bỉ; để gìn giữ và làm cho sự sống lớn lên, cần có sự kiên trì.
Hãy tự hỏi lịch sử của chính mình. Hãy tự hỏi quý vị lấy đâu ra năng lượng phi thường không bao giờ để dân tộc này gục ngã, mất niềm tin vào tương lai. Quý vị là một đất nước đa dạng, một cộng đồng gồm nhiều cộng đồng, nhưng được gắn kết bởi một ngôn ngữ chung. Tôi không chỉ nói về tiếng Ả Rập Levant mà quý vị đang nói – ngôn ngữ mà qua đó quá khứ vĩ đại của quý vị đã để lại những viên ngọc vô giá, mà còn nhất là tôi muốn nói đến ngôn ngữ của hy vọng, thứ ngôn ngữ luôn giúp quý vị khởi đầu lại.
Chung quanh chúng ta, gần như trên toàn thế giới, dường như một thứ bi quan và cảm giác bất lực đã thắng thế: người ta dường như không còn tự hỏi mình có thể làm gì để thay đổi dòng chảy lịch sử. Những quyết định lớn dường như được đưa ra bởi một số ít người và, thường là, gây thiệt hại cho công ích; điều đó khiến nhiều người cảm thấy như một định mệnh không thể tránh. Quý vị đã chịu nhiều đau khổ vì một nền kinh tế sát thương (x. Tông huấn Evangelii Gaudium, 53), vì sự bất ổn toàn cầu có những tác động tàn phá đối với vùng Levant, vì sự cực đoan hóa căn tính và các xung đột, nhưng quý vị vẫn luôn muốn và biết bắt đầu lại.
Libăng có thể tự hào vì có một xã hội dân sự năng động, được đào luyện tốt, và tràn đầy những người trẻ có khả năng định hình giấc mơ và khát vọng của cả một đất nước. Tôi khích lệ quý vị đừng bao giờ tách khỏi dân mình, nhưng hãy phục vụ nhân dân – vốn giàu đẹp trong sự đa dạng – với sự tận tâm và hết lòng dấn thân. Ước gì tất cả quý vị có thể làm vang lên một ngôn ngữ duy nhất: ngôn ngữ của hy vọng, ngôn ngữ quy tụ tất cả trong lòng can đảm để luôn bắt đầu lại. Ước gì khát vọng sống và cùng nhau phát triển như một dân tộc khiến mỗi nhóm cộng đồng trở nên một giọng trong một bản hòa âm. Ước gì tình cảm sâu đậm của biết bao người Libăng đang sống xa quê vẫn gắn bó với đất nước mình cũng nâng đỡ quý vị: họ yêu nguồn cội, họ cầu nguyện cho dân tộc mình và nâng đỡ dân tộc bằng những kinh nghiệm và khả năng phong phú khiến họ được trân trọng ở khắp nơi.
Chúng ta đi đến đặc điểm thứ hai của những người xây dựng hòa bình: họ không chỉ biết bắt đầu lại, nhưng làm điều đó trước hết bằng con đường khó khăn của hòa giải. Có những vết thương cá nhân và tập thể cần nhiều năm, thậm chí nhiều thế hệ để chữa lành. Nếu không được chăm sóc, nếu không làm việc, chẳng hạn, để chữa lành ký ức, để đưa những người đã chịu bất công hay tổn thương lại gần nhau, thì khó có thể hướng đến hòa bình. Người ta sẽ đứng yên, bị giam cầm trong nỗi đau và lẽ phải của riêng mình. Tuy nhiên, sự thật và hòa giải luôn lớn lên cùng nhau: trong gia đình, giữa các cộng đồng khác nhau và các thành phần đa dạng của một đất nước, và giữa các quốc gia.
Đồng thời, không thể có hòa giải bền vững nếu không có một đích điểm chung, nếu không mở ra tương lai, nơi điều thiện thắng vượt những điều xấu đã diễn ra hoặc phải chịu trong quá khứ hay hiện tại. Vì thế, một nền văn hóa hòa giải không chỉ nảy sinh từ bên dưới, từ thiện chí và lòng can đảm của một số người, mà còn cần có các chính quyền và thể chế nhìn nhận công ích cao hơn lợi ích phe nhóm. Công ích thì lớn hơn tổng hợp các lợi ích riêng: nó đưa các mục tiêu cá nhân đến gần nhau nhất có thể và hướng tất cả theo một lộ trình mà ở đó mỗi người đạt được nhiều hơn là khi bước đi riêng lẻ. Thật vậy, hòa bình thì lớn hơn một thế cân bằng, vốn luôn bấp bênh, giữa những người sống tách biệt dưới cùng một mái nhà. Hòa bình là khả năng cùng nhau cư ngụ, trong hiệp thông, như những con người đã được hòa giải. Một sự hòa giải không chỉ giúp chúng ta cùng sống, mà còn dạy chúng ta làm việc cùng nhau, sát cánh cho một tương lai chung. Và rồi, hòa bình trở thành sự phong phú bất ngờ mở ra khi chân trời của chúng ta vượt khỏi mọi hàng rào và biên giới. Đôi khi người ta nghĩ rằng cần phải làm sáng tỏ và giải quyết mọi sự trước khi bước đi; nhưng chính sự đối thoại, kể cả khi còn bất đồng, lại là con đường đưa đến hòa giải. Sự thật lớn nhất là chúng ta cùng được đặt trong một dự phóng mà Thiên Chúa đã chuẩn bị để tất cả có thể đạt đến sự viên mãn của sự sống trong tương quan với nhau và với Người.
Sau cùng, tôi muốn phác họa đặc điểm thứ ba của những người xây dựng hòa bình. Họ can đảm ở lại, cả khi điều đó đòi hy sinh. Có những lúc trốn chạy thì dễ dàng hơn, hoặc, đơn giản là, đi nơi khác thì thuận tiện hơn. Cần rất nhiều can đảm và tầm nhìn để ở lại hoặc trở về quê hương mình, trân trọng và yêu thương ngay cả những điều kiện còn rất khó khăn. Chúng ta biết rằng sự bấp bênh, bạo lực, nghèo đói và nhiều mối đe dọa khác gây ra tại đây, cũng như ở nhiều nơi khác, một cuộc xuất cư của giới trẻ và các gia đình đi tìm tương lai ở nơi khác, dù mang nỗi đau rời bỏ quê hương. Dĩ nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng nhiều điều tích cực đến với quý vị từ cộng đồng Libăng hải ngoại. Tuy nhiên, cũng không được quên rằng ở lại giữa đồng bào mình và cộng tác từng ngày để xây dựng nền văn minh tình thương và hòa bình là điều rất đáng quý.
Thực vậy, Giáo hội không chỉ quan tâm đến phẩm giá của những người rời bỏ quê hương tìm đến đất nước khác, nhưng còn mong ước không ai bị buộc phải ra đi và ai muốn trở về cũng có thể trở về trong an toàn. Việc di chuyển của con người là một cơ hội lớn lao để gặp gỡ và làm phong phú lẫn nhau, nhưng không xóa đi mối dây đặc biệt gắn kết mỗi người với những nơi chốn cụ thể làm nên căn tính riêng của họ. Và hòa bình luôn lớn lên trong một bối cảnh sống động cụ thể, được dệt nên bởi những mối dây địa lý, lịch sử và tâm linh. Cần khuyến khích những ai nuôi dưỡng các mối dây ấy, và không rơi vào chủ nghĩa địa phương hay dân tộc hẹp hòi. Trong Thông điệp Fratelli tutti, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chỉ ra con đường này: “Cần phải nhìn đến toàn cầu, điều giải thoát chúng ta khỏi sự chật hẹp trong nhà mình. Khi căn nhà không còn là gia đình, mà trở thành hàng rào, nhà giam, thì tầm nhìn toàn cầu giải thoát chúng ta vì nó giống như cứu cánh đưa chúng ta tới sự viên mãn. Đồng thời, cũng cần chân thành đón nhận chiều kích địa phương, vì nó có điều mà toàn cầu không có: nó là men, làm phong phú, khởi động các cơ chế bổ trợ. Do đó, tình huynh đệ phổ quát và tình bạn xã hội trong mỗi xã hội là hai cực không thể tách rời và thiết yếu” (số 142).
Đây không chỉ là thách đố của Libăng mà của toàn vùng Levant: làm thế nào để nhất là người trẻ không cảm thấy bị buộc phải rời bỏ quê hương và xuất cư? Làm thế nào thúc đẩy họ đừng tìm kiếm hòa bình nơi khác, nhưng tìm được sự bảo đảm của nó và trở thành những người kiến tạo hòa bình ngay trên quê hương mình? Người Kitô hữu và người Hồi giáo, cùng với mọi thành phần tôn giáo và dân sự trong xã hội Libăng, được mời gọi góp phần của mình và vận động cộng đồng quốc tế quan tâm hơn đến vấn đề này.
Trong bối cảnh đó, tôi muốn nhấn mạnh vai trò không thể thay thế của phụ nữ trong công cuộc khó khăn và kiên nhẫn nhằm bảo vệ và xây dựng hòa bình. Chúng ta đừng quên rằng phụ nữ có khả năng đặc biệt để kiến tạo hòa bình, vì họ biết gìn giữ và phát triển những mối dây sâu xa với sự sống và với con người. Sự tham gia của họ vào đời sống xã hội và chính trị, cũng như của các cộng đồng tôn giáo, hay như năng lượng đến từ giới trẻ, là một yếu tố mang lại sự canh tân đích thực trên toàn thế giới. Vì thế, phúc thay các phụ nữ kiến tạo hòa bình và phúc thay các bạn trẻ ở lại hoặc trở về, để Libăng tiếp tục là một mảnh đất đầy sức sống.
Tôi xin kết thúc bằng cách gợi lại một nét quý giá khác của truyền thống ngàn năm của quý vị. Quý vị là một dân tộc yêu âm nhạc, thứ âm nhạc trong những ngày lễ hội trở thành điệu nhảy, và trở thành ngôn ngữ của niềm vui và hiệp thông. Đặc điểm này trong văn hóa của quý vị giúp chúng ta hiểu rằng hòa bình không chỉ là kết quả của nỗ lực con người, dù điều đó là cần thiết, nhưng hòa bình là món quà đến từ Thiên Chúa, và trước hết cư ngụ trong tâm hồn chúng ta. Nó giống như một chuyển động nội tâm lan tỏa ra bên ngoài, giúp chúng ta để mình được dẫn dắt bởi một giai điệu lớn hơn chính mình – giai điệu của tình yêu Thiên Chúa. Ai thực hiện điệu nhảy thì chân bước nhẹ nhàng, không đạp lên mặt đất, hòa nhịp bước chân với người khác. Hòa bình cũng vậy: đó là một hành trình do Thần Khí thúc đẩy, khiến trái tim biết lắng nghe, biết để ý và tôn trọng người khác. Ước gì khát vọng hòa bình này, khởi đi từ Thiên Chúa, được lớn lên giữa quý vị, và có thể biến đổi ngay hôm nay cách chúng ta nhìn tha nhân và cùng nhau cư ngụ trên mảnh đất mà Người hết mực yêu thương và không ngừng chúc phúc.
Thưa Ngài Tổng thống, kính thưa quý vị lãnh đạo, tôi xin cảm ơn một lần nữa vì sự tiếp đón mà quý vị dành cho tôi. Xin hãy tin rằng tôi và toàn thể Giáo hội luôn cầu nguyện cho quý vị trong sứ vụ tinh tế phục vụ công ích.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Nguồn Thơm Sự Sống
Cần có tình yêu để sống
Trực tuyến Thánh lễ an táng Cha giáo Anrê
Thánh Lễ tại “Volkswagen Arena”, Istanbul
Thánh Đường vào đêm
Bàn tiệc chẳng dành riêng ai.
Lịch mục vụ tháng 12.2025 của Đức Giám Mục
CÁO PHÓ: Cha giáo Anrê Trần Xuân Cương
Hãy sẵn sàng (Mt 24, 37- 44)
Hãy nhớ… tỉnh thức và sẵn sàng
Niềm Hy Vọng: Ngày Chúa Đến
Thư mời hiệp dâng Thánh lễ tháng Mười Hai
Cáo phó Anh GB. HOÀNG NGỌC ANH