Lời Chúa THỨ TƯ TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN

Thứ sáu - 12/09/2025 14:04 |   10
“Ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: ‘Ông ta bị quỷ ám’. Con Người đến, cũng ăn cũng uống, thì các ông lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’.” (Lc 7,31-35)

17/09/2025
Thứ tư tuần 24 THƯỜNG NIÊN
Thánh Rôbertô Bellaminô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

t4 t24 TN

Lc 7,31-35


sống không thành kiến
“Ông Gio-an Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: ‘Ông ta bị quỷ ám’. Con Người đến, cũng ăn cũng uống, thì các ông lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’.”
(Lc 7,31-35)

Suy niệm: “Ở sao cho toại lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê…” Câu ca dao trào phúng của cha ông ta áp dụng rất đúng về thái độ xét đoán đầy thành kiến của người Do Thái đương thời với Chúa Giê-su. Nhiệm nhặt, khắc khổ như Gio-an Tẩy giả thì bị họ ‘dán nhãn’ là “bị quỷ ám”. Ngược lại, hoà đồng, dễ gần như Đức Giê-su thì bị ‘chụp mũ’ là phóng túng, “bè bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Nói chung, họ không muốn lắng nghe chân lý mà luôn tìm ra lý lẽ để biện minh. Chúa Giê-su dạy: Thay vì chỉ phê phán hay tìm cách làm vừa lòng mọi phê phán đầy thành kiến đó, hãy biết dựa vào đức khôn ngoan để phân định và dùng hành động để thực thi điều đó.

Mời Bạn: Thành kiến có thể được hiểu là ý kiến hay quan điểm bị đóng khung trong một phạm trù cố hữu nào đó, dù có góc nhìn và đánh giá tốt hay xấu hơn thực tại thì đều mang tính lệch lạc” (Nhân cách đời tu 3). Đây là lời nhắc nhở chúng ta đừng tìm cách làm vừa lòng những lối phê phán đầy thành kiến, nhưng hãy lắng nghe và nhận ra ý Chúa cho dù đến từ bất cứ ai và bằng bất cứ cách nào.

Sống Lời Chúa: Thường xuyên phân định sự việc dưới ánh sáng Lời Chúa để loại trừ mọi thành kiến phê phán kết án tha nhân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con đừng vội vàng phê phán tha nhân theo thành kiến, nhưng giúp con biết nhận ra điều tốt đẹp tích cực nơi anh em, dù họ là ai, đến từ nơi nào. Amen.

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thứ tư tuần 24 THƯỜNG NIÊN

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, xin ban bình an cho những ai trông cậy vào Chúa, xin cho các tiên tri của Chúa được trung trực; xin nhậm lời cầu nguyện của tôi tớ Chúa, và của Israel dân Chúa.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa là Ðấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin nhìn đến chúng con và cho chúng con biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I) 1 Tm 3, 14-16

“Thật lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.

Con thân mến, cha viết cho con những điều này, cha hy vọng ngày gần đây sẽ đến gặp con. Nhưng nếu cha còn trì hoãn, thì thư này giúp cho con biết phải cư xử thế nào trong nhà Thiên Chúa, là Hội thánh Thiên Chúa hằng sống, là cột trụ và nền tảng chân lý. Rõ thực lớn lao thay mầu nhiệm của tình thương, là mầu nhiệm đã được tỏ hiện trong xác thịt, minh chính trong Thánh Thần tỏ hiện cho Thiên Thần, rao giảng cho Dân Ngoại, kính tin trong thế gian, siêu thăng trong vinh hiển.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6

Ðáp: Vĩ đại thay công cuộc của Chúa (c. 2a).

Xướng: Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!

Xướng: Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi.

Xướng: Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.

Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 12, 31 – 13, 13

“Ðức tin, đức cậy, đức mến vẫn tồn tại, nhưng đức mến là trọng hơn cả”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy cầu mong những ơn cao trọng hơn. Và tôi chỉ bảo anh em một con đường hoàn hảo nhất. Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khoa học; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát hết gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi.

Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý. Bác ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả.

Bác ái không khi nào qua đi, ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất. Vì chưng chúng ta hiểu biết có giới hạn, chúng ta nói tiên tri có giới hạn, nhưng khi điều vẹn toàn đến, thì điều có giới hạn sẽ biến đi. Khi còn bé nhỏ, tôi nói như trẻ nhỏ, suy tưởng như trẻ nhỏ, lý luận như trẻ nhỏ; nhưng khi tôi đã trưởng thành, tôi loại bỏ những gì là trẻ nhỏ. Hiện giờ, chúng ta thấy mờ mịt qua tấm gương, nhưng lúc bấy giờ, diện đối diện. Hiện giờ, tôi biết có giới hạn, nhưng lúc bấy giờ, tôi sẽ biết như tôi được biết. Hiện giờ, đức tin, đức cậy, đức mến, tất cả ba đều tồn tại, nhưng trong ba nhân đức, đức mến là trọng hơn cả.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 32, 2-3. 4-5. 12 và 22

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.

Xướng: Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa.

Xướng: Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! – Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 7, 31-35

“Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng:

“Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa.

“Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc”.

Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: “Người bị quỷ ám”. Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: “Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”. Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin nghe lời chúng con cầu nguyện và thương nhận những lễ vật này để hiến lễ mỗi người chúng con dâng mà tôn vinh Danh Thánh, giúp mọi người đạt tới ơn cứu độ. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Ôi Thiên Chúa, cao quý thay ân sủng của Ngài. Con người ta tìm nương tựa trong bóng cánh của Ngài.

Hoặc đọc:

Chén chúc tụng mà chúng ta cầm lên chúc tụng Chúa, là thông hiệp với máu Chúa Kitô, và tấm bánh mà chúng ta bẻ ra, là thông phần vào mình Chúa.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, xin làm cho sức mạnh của bí tích này tràn ngập chúng con cả hồn lẫn xác, để chúng con không còn sống theo những cảm nghĩ tự nhiên, nhưng luôn theo ơn Thánh Thần hướng dẫn. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

ĐỨC GIÊ-SU PHÊ PHÁN VỀ THẾ HỆ CỦA NGƯỜI (Lc 7,31-35)
Lm Giuse Đinh Lập Liễm

1. Đức Giê-su phê phán sự cứng lòng và kiêu ngạo của người Do thái, đặc biệt các luật sĩ và biệt phái. Họ luôn tìm cách biện minh cho mình và trốn tránh sự thật. Ông Gio-an Tẩy Giả sống khắc khổ, họ bảo là quỷ ám. Còn Đức Giê-su sống giản dị, gần gũi, hòa đồng với dân, họ lại cho là một tay ăn nhậu, bê tha. Thế nhưng, sự hiện diện và yêu thương của Đức Giê-su càng chứng tỏ cho thấy họ thật ngoan cố và ác tâm. Nếu chúng ta cứng lòng không tin vào Đức Giê-su chúng ta cũng sẽ không nhận ra Người.

2. Đức Giê-su trách dân chúng thời đó, nhất là các biệt phái và luật sĩ thờ ơ lãnh đạm với Gio-an Tẩy Giả và đối với Ngài. Vì thế, Đức Giê-su dùng dụ ngôn lũ trẻ chơi ngoài đường phố để nói lên điều ấy. Cũng giống như ở Việt nam, trẻ em Do thái thường có những cuộc hát đối hơi khác Việt nam một chút. Các trẻ em thường chia làm hai phe: một bên xướng tiểu khúc hoặc vui hoặc buồn, còn bên kia họa lại điệu vui hay buồn với câu điệp khúc của những bài ca dao có sẵn. Nhưng nhiều khi gặp những kẻ nghịch ngợm, không cứ theo lệ quen, bên xướng, ca hát vui vẻ thì chúng lại phá đám bằng giọng bi ai, than khóc, hoặc ngược lại. Đôi khi có những đứa ương ngạnh đứng đấy mà không chịu làm theo. Thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược.

3. Đức Giê-su mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài đường phố để nói lên thái độ trái nghịch của người Do-thái. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do-thái thời Đức Giê-su cũng có phản ứng  đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài đường phố này. Họ mong chờ Đấng Cứu Thế, Gio-an Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỷ ám; Đức Giê-su khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại cho rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế tội lỗi (Mỗi ngày 1 tin vui).

4. Thói thường, con người ta dễ lấy mình làm trung tâm và muốn áp đặt tư tưởng và hành động của mình lên người khác. Vì thế mà qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy chúng ta đừng áp đặt người khác phải theo tư tưởng của mình.

Giống như bọn trẻ thổi sáo giả bộ đám cưới đòi người khác hát, ca bài đưa đám giả bộ buồn bắt người khác khóc theo… với một hoàn cảnh không thực tế. Trong ý thức hệ của người Do thái, họ vẽ ra trong tư tưởng của mình một lối sống kiểu biệt phái giả hình và đòi dân theo, họ quan niệm một thời kỳ cứu độ và một Đấng Mê-si-a giầu sang  chứ không khắc khổ kiểu Gio-an Tẩy Giả và làm bạn với bậc đế vương, chứ không phải hòa đồng chung bàn với người hèn kém. Từ đó họ không nhận ra được Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế. Với ý thức hệ như thế, họ không những bị trói buộc trong tư tưởng thiển cận của họ, không nhận ra được dấu chỉ của thời đại, mà còn bắt người khác phải suy nghĩ và hành động như họ, kể cả Đức Giê-su (Hiền Lâm).

5. Lối sống của Gio-an Tẩy Giả và của Đức Giê-su thật khác nhau. Gio-an nhiệm nhặt, còn Đức Giê-su thông thoáng cởi mở. Buồn cười là cả hai đều bị người Do thái chỉ trích, do chính lối sống của mỗi vị. Vạch ra cái “buồn cười” ấy ở đây, Đức Giê-su không chỉ nhằm xác nhận một kinh nghiệm về nhân tình thế thái: Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê.Phải chăng Ngài còn hàm ý rằng không có một lối sống duy nhất tốt, mà có nhiều: mỗi người, theo ơn gọi của mình, sẽ đảm nhận một lối sống phù hợp với ơn gọi đó? Điều cốt yếu là cái động lực, cái hồn của lối sống mà mình đảm nhận (5 phút Lời Chúa).

6. Khi trò chơi Flappy Bird và tác giả của nó trở nên nổi tiếng, được giới truyền thông thế giới quan tâm, thì có hàng loạt ý kiến trái ngược như: “ăn may chứ có gì hay” hoặc “game ngớ ngẩn thế mà sao lắm kẻ thích”;

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy những người Do-thái đã có thái độ ghen tị với Đức Giê-su. Họ không những từ chối sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su, mà còn có những lời chê bai, nhận xét xấu xa về Ngài. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng dễ xét đoán và đánh giá người khác theo cái nhìn chủ quan của mình. Tệ hơn nữa, lắm khi vì đố kỵ trước những thành công của người khác mà chúng ta tìm mọi cách để bôi nhọ và làm suy giảm danh tiếng của họ.

7. TruyệnChủ quan, phiến diện.

Lúc 11 tuổi, đứa bé thường bảo rằng: “Cha mẹ của tôi rất vĩ đại. Không có gì mà cha mẹ tôi không biết. Không có gì mà họ không làm được”.

Lên 16 tuổi nó nói: “Cha mẹ tôi không vĩ đại như tôi tưởng, không phải cái gì họ cũng biết hoặc cũng có thể làm”.

Ba năm sau, nghĩa là khi lên 19 tuổi, học Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi thường cho rằng họ đúng, kỳ thực, kiến thức của họ so với kiến thức của tôi thì thua kém xa”.

Sau khi lập gia đình, nó được 24 tuổi, tốt nghiệp Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi không hiểu tuổi trẻ; thanh niên thì tiến bộ, còn họ lại bảo thủ”.

Năm 30 tuổi, có con cái, nó khám phá ra chân lý sau: “Ở nhiều sự việc, cha mẹ thường có lý”.

Đến lúc nó được 50 tuổi, khi cha mẹ nó đều đã qua đời, nó không cầm được lòng và tuyên bố: “Cha mẹ tôi đúng là những nhân vật tuyệt vời! Họ có đầu óc rất minh mẫn, xử sự rất hợp lý, hợp thời. Cha mẹ ơi, cha mẹ là các vị thần”!

LẤY CỦA CẢI GIÚP CÁC NGÀI
(THỨ SÁU TUẦN 24 TN NĂM LẺ)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Sáu Tuần 24 Thường Niên, Năm Lẻ này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, xin Chúa nhìn đến chúng ta, và cho chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương.

Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, trung thành giữ giao ước với Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Êdêkien: Giêrusalem, người vợ bất trung. Dùng lối văn phúng dụ của Hôsê, Êdêkien kể lại câu chuyện tình giữa Thiên Chúa với dân Người. Là người vợ bất trung, dân Chúa đã bị trừng phạt, rồi được thứ tha, nhưng chứng nào tật nấy. Thiên Chúa là người chồng bị xúc phạm, vẫn quảng đại thứ tha. Ơn thứ tha là một cái gì khủng khiếp, vượt xa mọi khái niệm công trạng, sẽ là hình phạt thiết thực nhất khiến người vợ bất trung phải hổ thẹn… Ta đã gọi ngươi về như gọi người phụ nữ bị bỏ rơi. Lúc bừng bừng lửa giận, Ta đã ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi, nhưng vì tình nghĩa keo sơn, Ta chạnh lòng thương xót. Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi phán như vậy. Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta đã lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân, Ta sẽ thiết lập với ngươi một giao ước vĩnh cửu.

Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, chấp nhận chịu thử thách để được thanh luyện, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Autinh: Con hãy chuẩn bị tâm hồn để đón chịu thử thách… Vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng, không phải để làm vừa lòng người phàm, mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Lời giảng của chúng tôi không sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai.

Cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương, không cậy dựa vào tiền của, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gửi ông Timôthê: Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy gắng trở nên người công chính. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 48 cho thấy: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Ngày vận hạn cớ chi phải sợ, lúc bọn gian manh theo sát bủa vây tôi? Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những người bé mọn. Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật: Các bà cùng đi với Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai, đã lấy của cải mình mà giúp đỡ các ngài. Nước Trời dành cho những kẻ bé mọn, không cậy vào sức mình, của cải của mình; những người phụ nữ đi theo Đức Giêsu là những người bé mọn, họ dùng tiền của để phục vụ cho Nước Trời. Kẻ phát tài, hoặc cửa nhà phong lưu, khi chết, đâu mang được gì, kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, bởi vì, những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh hủy diệt tiêu vong. Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé. Nếu muốn dấn thân phụng sự Chúa, thì, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận thử thách. Quả vậy, nếu dám chịu thử thách, thì, người yếu sẽ nên mạnh, kẻ ốm sẽ thành khoẻ; nhờ đó, chúng ta không còn mơ ước lợi lộc trần gian này nữa. Thật thế, ta mơ ước những lợi lộc trần gian, thì, chính những mối lợi ấy sẽ làm cho ta ra hư hỏng. Chúa là Đấng sáng tạo và điều khiển muôn loài, ước gì chúng ta biết tận tình thờ phượng Chúa, hầu luôn được cảm thấy rõ ràng lòng Chúa yêu thương. Ước gì được như thế!

 

Ngày 17/9: Thánh Em-ma-nu-el Nguyễn Văn Triệu – Linh mục (1756-1798)

Chú lính cận vệ

Cha Em-ma-nu-el Nguyễn Văn Triệu sinh năm 1756 ở Phủ Cam (Huế) trong một gia đình quan lại. Thân phụ làm quan ở triều Nguyễn, bị chết trong trận chiến với nhà Tây Sơn. Là con quan có công với Nhà nước, cậu Triệu được ở trong đội lính cận vệ nhà vua; khi chiến đấu cậu tỏ ra rất anh dũng. Năm 1775 chúa Nguyễn thua trận chạy trốn vào Đồng Nai. Cậu Triệu ở lại Huế giúp việc một quan người Bắc lúc ấy đang cai trị mấy tỉnh phía bắc miền Trung.

 

Hoạt động tông đồ trên đất Bắc

Khi nhà Tây Sơn truyền cho mọi người gốc miền Bắc phải trở về nguyên quán, cậu Triệu cũng theo họ ra Bắc và ở đây Chúa đang đợi chờ cậu, cuộc đời cậu sắp bước sang một khúc ngoặt mới. Cậu gặp một Cha thừa sai, được Cha giảng giải về đạo, cậu phục lẽ, chịu phép rửa tội. Cậu cảm thấy tiếng Chúa thôi thúc muốn cậu tiến lên hơn nữa, cậu đã hiến dâng cuộc đời cho Chúa và Giáo Hội. Bỏ nghề binh đao, cậu xung vào đội tiền phong của Chúa Ki-tô để mở nước Chúa. Cậu được một Cha thừa sai dẫn dắt. Về sau, cậu ở với các Cha dòng Thánh Đa-minh (Tây-ban-nha) và được Đức Cha địa phận Đông Đàng Ngoài truyền chức linh mục cho, rồi Cha Triệu hoạt động tông đồ ở địa phận này. Trong vòng năm, sáu năm, cha tận tụy chăm chỉ giảng dạy khuyên bảo con chiên, được các đấng bề trên khen ngợi.

Nghe tin mẹ già đau yếu, nghèo khó không có nhà ở. Cha xin phép Đức Cha về Phú Xuân – Huế thăm mẹ. Ai ngờ chuyến đi này là chuyến đi lĩnh triều thiên tử đạo. Vừa về tới quê nhà, Cha lên chào Đức Cha La-ba-tét[1], Đức Cha phụ tá địa phận Đàng Trong và trình lên ngài thư giới thiệu của Đức Cha địa phận Đàng Ngoài để Cha được phép ở gia đình trong những thời gian cần giúp mẹ.

Cuộc tranh luận trong triều vua Cảnh Thịnh

Bấy giờ vua Cảnh Thịnh con vua Quang Trung đóng đô ở Huế. Trong triều có một quan tên là Lối vốn ghét người có đạo, nhất là các linh mục. Quan tâu với vua rằng: “Người Tây phương tài giỏi, thông thạo việc binh đao, trong nước lại có những người theo đạo Gia-tô làm hậu thuẫn, chúng chỉ chờ dịp tiện là xông vào cướp nước ta. Vậy xin đức vua ra chiếu chỉ truy nã lùng bắt các đạo trưởng Tây và đạo trưởng Nam để diệt ngay mối nguy cơ đe dọa Nhà nước”.

Trong triều cũng có quan Hồ Cung Diệu là người có đạo, quan này phụ trách việc đối ngoại, giao dịch với ngoại quốc. Quan lên tiếng bênh vực các linh mục, phản đối ý kiến của quan Lối. Quan tâu với vua rằng: “Đạo chúng tôi dạy vâng phục quyền bính, tôn kính tổ tiên, sao lại có thể nổi loạn chống lại nhà vua, chống lại tổ quốc, xin đừng nghe ý kiến ấy, sợ rằng trong nước sẽ mất trật tự”.

Nhưng cuối cùng sự dữ đã thắng, vua Cảnh Thịnh nghe theo lời tố cáo gian dối kia.

Bị bắt 

Ngày 7-8-1798, theo lệnh vua, các quan đem bốn đại đội thình lình đến bao vây bốn xứ đạo gần thành phố Huế. Khu vực này có hai ba cha đang ẩn. Được tin mật báo, các cha đã kịp trốn thoát, Cha Triệu vì mới đến còn bỡ ngỡ, không mấy người biết, Cha không kịp cải trang cũng không kịp trốn.

Bổ vây phường Thợ Đúc (Huế) xong, lính gặp một bà bán đồng nát không có đạo, lính hỏi bà rằng: “Ở đây có cụ đạo không?” Bà trả lời: “Có, cụ thường đi Phủ Cam và đến nhà dòng”. Quan quân vội vàng tiếp tục đi, theo hướng câu trả lời trên chỉ dẫn. Đến phường Thợ Đúc, lính bắt nhiều người có đạo và tra hỏi họ đạo trưởng trốn ở đâu. Chẳng may Cha Triệu ở trong số này. Bị bại lộ, Cha bị bắt và bị trói ngay. Bà mẹ Cha thấy con bị bắt thì khóc lóc thảm thiết, Cha cũng cảm động an ủi mẹ rằng: “Thiên Chúa dùng dịp này để con mẹ được vinh hiển, mẹ đừng cưỡng lại thánh ý Chúa, mẹ đừng khóc, mẹ phải theo thánh ý Chúa”.

Cha bị điệu về nhà giam Trấn Thủ Huế, lúc ấy có hai nữ tu đến tận tụy lo cho những người cùng bị bắt với Cha, nên lính canh đánh đập hai chị rất dã man.

Vị tướng can trường của Chúa Ki-tô

Khi ra trước công đường, quan án hỏi Cha: “Ông ở ngoài Bắc vào đây giảng đạo để dụ dỗ dân chúng theo đạo có phải không?” Cha Triệu đáp rằng: “Thưa quan lớn, tôi không phải là người Bắc, tôi là người miền Trung. Tôi sinh ở Phú Xuân – Huế, cụ thân sinh của tôi là ông Cai Luông đã làm quan giúp chúa Nguyễn. Cách đây 20 năm, trong kỳ đói kém, tôi phải bỏ quê hương ra Bắc sinh sống. Ở đây, tôi biết đạo và theo đạo, mấy năm sau tôi được chịu chức linh mục, đi giảng đạo. Xa quê hương đã lâu, tôi mới về thăm mẹ tôi đã già yếu lại ốm đau độ hai tháng nay.

Quan Án hỏi giọng mỉa mai rằng: “Ông có vợ con không? Ở đây hay ngoài Bắc?” Cha thưa lại: “Tôi không có vợ con, từ nhỏ tôi đã bỏ sự đời, quyết giữ mình trong sạch trọn đời”.

Quan truyền giam Cha vào ngục chật hẹp tối tăm, đóng gông rất nặng, nhưng sau quan sợ Cha chết trước khi xử, nên thay gông nhẹ hơn. Ba lần Cha bị tra tấn rất dữ dội, bị đánh 60 roi, ngày đêm mang xiềng xích, ngoài ra quân lính còn tìm mọi hình khổ để hành hạ Cha, chúng chửi rủa, xỉ vả Cha thậm tệ, Cha đang ăn cơm, chúng cướp giật cả thức ăn, có khi còn trộn những thứ nhơ bẩn vào. Dù thế Cha vẫn bình thản can trường như người lính giữ nơi xung yếu, bị tấn công dồn dập vẫn giữ vững vị trí của mình, khí giới của Cha là cầu nguyện và suy ngắm. Trong 40 ngày bị giam giữ, Cha được Cha Lộc đến thăm và giải tội cho một lần. Mẹ Cha cũng đến thăm Cha, ơn Chúa đã thay đổi tâm tình bà, bà không còn phàn nàn khóc lóc, trái lại bà an ủi khuyên Cha vui lòng chịu mọi sự khó vì Chúa.

Đến ngày 17-8, các quan kết án Cha bị voi dày, nhưng vì ý kiến bất đồng nên hoãn lại.

Đến ngày 17-9, Cha bị điệu ra tòa lần cuối cùng. Quan hỏi Cha: “Bây giờ ông nghĩ thế nào? Nếu ông bằng lòng không giảng đạo nữa, về nhà quê ông muốn làm gì tùy ý, tôi sẽ tâu vua tha chết cho ông”. Cha Triệu can đảm thưa lại rằng: “Cám ơn quan lớn, tôi là đạo trưởng, nhiệm vụ của tôi là giảng đạo thánh Chúa, tôi thà chết chẳng thà chối bỏ việc bổn phận của tôi”.

Cha vừa nói xong, quan làm án Cha phải trảm quyết ngay ngày hôm ấy.

Trên pháp trường Bãi Dâu – Huế

Khoảng 10 giờ sáng, Cha bị điệu ra pháp trường cùng sáu người trộm cướp. Các quan có ý làm nhục Cha, nhưng có ngờ đâu Cha lại vui mừng vì càng được nên giống Thày chí thánh.

Giáo dân biết tin lũ lượt đón đường từ biệt Cha. Còn Cha, Cha mạnh bạo bước đi hùng dũng như người lính tiến ra trận không phải như tội nhân tiến ra pháp trường. Một người lính đi trước Cha cầm bản án ghi rằng: “Để cho mọi người được biết: Tên Triệu nguyên quán ngoài Bắc, thuộc gia đình Nguyễn Văn Đang, làm nghề dạy Gia-tô tả đạo và dụ dỗ người ta theo đạo ấy, một thứ đạo rất đáng chê ghét, vì thế nó phải trảm quyết”.

Khi tới Bãi Dâu, Cha quỳ xuống cầu nguyện, quan đưa cho mỗi nạn nhân một quan tiền, đến lượt Cha Triệu, cha từ chối nói rằng: “Tôi không còn thiếu sự gì ở trần gian này nữa”. Quan Án nhấn mạnh: “Đây là đặc ân của Triều đình, không được phép khinh chê”. Nghe thế Cha nói rằng: “Nếu vậy tôi nhờ quan giữ số tiền này cho người nghèo”.

Khi đang nói chuyện, một tên lính lấy roi quật vào mặt Cha. Quan Án giận mắng nó rằng: “Chưa đến giờ xử, sao mày lại xử tệ với tội nhân như thế!”. Quan phạt tên lính ấy rồi quay sang nói với Cha Triệu: “Mời ông ngồi, khi tới giờ xử, tôi sẽ báo cho ông trước”. Cha Triệu ngồi xuống và tiếp tục cầu nguyện.

Một lúc, quan án bảo Cha: “Đã đến giờ”. Hiểu ý, Cha Triệu quỳ ngay lên, giơ đầu chịu chém. Đầu rơi, máu chảy lênh láng, giáo dân đổ xô vào thấm máu, nhổ cỏ, nạo đất.

Các quan tỏ lòng mến phục Cha, cho phép giáo dân lấy xác Cha đem về chôn cất.

Cha Em-ma-nu-el Nguyễn Văn Triệu được phúc tử đạo ngày 17-9-1798 thọ 42 tuổi.

Khi sự đạo được bằng yên, Đức Cha La-ba-tét đưa hài cốt Cha Triệu về táng trong nhà thờ họ Dương Sơn.

Đức Thánh Cha Lê-ô XIII đã phong chân phúc cho Cha ngày 27-5-1900.

Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II tôn phong Cha lên bậc hiển thánh ngày 19-6-1988.


[1] Labartette.

Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn

 

PowerPoint-t4-t24-TN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây