15/10/2025
thứ tư tuần 28 THƯỜNG NIÊN
Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 11,42-46
lẽ công bình và lòng yêu mến chúa
“Khốn cho các người, hỡi những người Pha-ri-sêu! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Chúa.” (Lc 11,42-46)
Suy niệm: Chúa Giê-su mạnh mẽ khiển trách những người Pha-ri-sêu và những nhà thông luật vì họ có thái độ khoe khoang: bên ngoài có vẻ công chính nhưng bên trong thì chứa đầy mưu mô xảo trá gian tà. Những lời lẽ nặng nề của Chúa Giê-su cho thấy, đối với Thiên Chúa, sự giả hình đáng ghét chừng nào và đồng thời “lẽ công bình và lòng yêu mến Chúa” quan trọng biết bao! Chỉ những ai sống theo luật này thì mới thật sự là người thi hành ý muốn của Chúa một cách hoàn hảo. Vì vậy, chính ở điểm này mà mọi người sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ đích thật của Chúa Giê-su.
Mời Bạn: Yêu mến và thực thi công bình chính là cốt lõi của đời sống thánh thiện. Giữ đủ thứ điều răn giới luật, làm công tác từ thiện, đóng góp tiền bạc xây dựng nhà thờ, đền thánh mà trong cuộc sống vẫn gian tham bất công, lòng vẫn đầy thù oán, hiềm khích thì có khác nào lối sống Pha-ri-sêu đã bị Chúa lên án nặng nề? Bạn nhớ rằng chúng ta “phải làm các điều này” (công bình và nhân ái) đồng thời “không được bỏ các điều kia” như Chúa đã căn dặn chúng ta.
Sống Lời Chúa: Khi xét mình, bạn nhớ chú ý xét kỹ hơn các tội phạm đến đức công bằng và đức bác ái.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa chính là cội nguồn của sự công bình và bác ái. Xin soi sáng và hướng dẫn chúng con biết sống chu toàn lề luật Chúa bằng đời sống công bằng và nhân ái, để làm chứng nhân cho tình yêu và sự hiện diện của Chúa. Amen.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
thứ tư tuần 28 THƯỜNG NIÊN
Ca nhập lễ
Lạy Chúa, lạy Chúa, nếu Chúa nhớ hoài sự lỗi, nào ai chịu nổi được ư? Vì lạy Thiên Chúa Is-ra-el, Chúa thường rộng lượng thứ tha.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy, Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 2, 1-11
“Người sẽ trả lại cho ai nấy theo công việc họ đã làm, trước là những người Do-thái, sau là những người Hy-lạp”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Hỡi con người kia, hễ ngươi xét đoán, thì ngươi không thể chữa mình được đâu. Vì ngươi xét đoán kẻ khác thế nào, thì ngươi tự lên án mình như vậy: bởi lẽ ngươi cũng phạm điều ngươi lên án. Chúng ta đều biết Thiên Chúa căn cứ theo chân lý mà xét đoán những kẻ hành động như thế.
Hỡi con người kia, ngươi xét đoán những kẻ hành động thể ấy, mà chính mình ngươi cũng làm, ngươi nghĩ rằng: ngươi thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa được sao? Hay là ngươi khinh thị lòng nhân hậu, nhẫn nại và khoan dung của Người? Ngươi chẳng biết rằng lòng nhân lành của Thiên Chúa phải thối thúc ngươi hối cải sao?
Thật bởi lòng ngươi chai đá, không chịu hối cải, ngươi chỉ tích trữ cho mình cơn thịnh nộ trong ngày thịnh nộ, ngày sẽ tỏ ra thẩm phán công bình của Thiên Chúa, Ðấng sẽ trả lại cho ai nấy tuỳ theo công việc họ đã làm, vì hễ những ai bền đỗ làm lành, tìm kiếm vinh quang, danh dự và ơn bất tử, thì sẽ được sống đời đời; còn những ai ương ngạnh, không vâng phục chân lý, mà lại tin theo sự gian ác, thì sẽ gặp cơn thịnh nộ và giận dữ.
Hễ kẻ nào làm sự dữ, thì mắc phải gian nan phiền muộn, trước là những người Do-thái, sau là những người Hy-lạp: vì Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai cả.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 61, 2-3. 6-7. 9
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa sẽ trả công mỗi người theo như việc họ làm (c. 13b).
Xướng: Duy nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi được an vui; do chính mình Người, tôi được ơn cứu độ. Phải, chính Chúa là Ðá tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng.
Xướng: Nơi Thiên Chúa, linh hồn tôi ơi, hãy an vui, vì do Người, tôi được điều tôi trông đợi. Phải, chính Chúa là Ðá tảng, là ơn cứu độ của tôi, Người là chiến luỹ của tôi, tôi sẽ không hề nao núng.
Xướng: Hỡi dân tộc, hãy trông cậy Người luôn mọi lúc, hãy đổ giốc niềm tâm sự trước nhan Người, vì Thiên Chúa là nơi ta nương náu.
Bài Ðọc I: (Năm II) Gl 5, 18-25
“Những ai thuộc về Ðức Kitô, thì đóng đinh xác thịt cùng với các dục vọng vào thập giá”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, nếu anh em được Thánh Thần hướng dẫn, anh em không còn ở dưới chế độ lề luật nữa. Vả chăng người ta thừa hiểu sự nghiệp của xác thịt là: tà dâm, ô uế, phóng đãng, buông tuồng, thờ lạy thần tượng, phù phép, thù hằn, kình địch, ghen tương, giận dữ, cãi lẫy, bất bình, bè phái, giết người, say sưa, mê ăn uống, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho anh em hay, như tôi đã từng nói rằng: hễ những ai phạm các điều lỗi đó, sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa.
Còn hoa quả của Thánh Thần là: yêu thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung, dịu hiền, trung trực, đức hạnh, tiết độ, trinh khiết. Lề luật không chống lại các điều ấy. Vả chăng, những ai thuộc về Ðức Kitô, thì đã đóng đinh xác thịt cùng với các dục vọng và đam mê vào thập giá. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, chúng ta cũng hãy ăn ở theo Thánh Thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 1, 1-2. 3. 4 và 6
Ðáp: Lạy Chúa, ai theo Chúa sẽ được ánh sáng ban sự sống (c. Jo 8,12).
Xướng: Phúc cho ai không theo mưu toan kẻ gian ác, không đứng trong đường lối những tội nhân, không ngồi chung với những quân nhạo báng, nhưng vui thoả trong lề luật Chúa, và suy ngắm luật Chúa đêm ngày.
Xướng: Họ như cây trồng bên suối nước, trổ sinh hoa trái đúng mùa; lá cây không bao giờ tàn úa. Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt.
Xướng: Kẻ gian ác không được như vậy, họ như vỏ trấu bị gió cuốn đi; vì Chúa canh giữ đường lối người công chính, và đường kẻ gian ác dẫn tới diệt vong.
Alleluia: Mt 4, 4b
Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 11, 42-46
“Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái, và khốn cho các ngươi, hỡi những tiến sĩ luật”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi nộp thuế thập phân, bạc hà, vân hương, và các thứ rau, mà lại bỏ qua đức công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa: Phải thi hành những điều này, và không được bỏ những điều kia. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Vì các ngươi ưa thích ngồi ghế nhất trong các hội đường, và ưa thích được chào hỏi ngoài phố chợ. Khốn cho các ngươi, vì các ngươi giống những mồ mả không rõ rệt, người ta bước đi ở trên mà không hay biết!”
Có một tiến sĩ luật trả lời Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy nói như thế là Thầy sỉ nhục cả chúng tôi nữa”. Người đáp lại rằng: “Hỡi những tiến sĩ luật, khốn cho các ngươi nữa! Vì các ngươi chất lên người ta những gánh nặng không thể vác được, mà chính các ngươi dù một ngón tay cũng không động tới”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin chấp nhận những lời cầu xin và lễ vật chúng con dâng tiến, để làm cho thánh lễ chúng con đang sốt sắng cử hành mở đường dẫn chúng con tới quê trời vinh hiển. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Bọn giàu sang đã sa cơ nghèo đói; nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo.
Hoặc đọc:
Khi Chúa tỏ mình ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng cao cả. Chúa đã lấy Mình và Máu Ðức Kitô làm của ăn nuôi dưỡng chúng con; chúng con nài xin Chúa cho chúng con được chia sẻ chức vị làm con Chúa với Người, Người hằng sống và hiển trị muôn đời…
Suy niệm
CẦN TRÁNH THÓI GIẢ HÌNH (Lc 11,42-46)
Lm Giuse Đinh Lập Liễm
1. Sau khi Đức Giê-su lên tiếng khiển trách các biệt phái về tội vụ luật, hình thức, bây giờ Người vạch ra tội giả hình của họ. Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải suy nghĩ: có lẽ chúng ta đang sống cách sổng của người biệt phái xưa. Lối sống mà Đức Giê-su chê trách là chỉ giữ cặn kẽ những điều luật dạy một cách giả hình mà không theo tinh thần của lề luật, đó là mến Chúa và yêu thương anh em. Đức Giê-su không bác bỏ việc giữ luật, nhưng phải giữ với lòng yêu mến chứ đừng hình thức. Người cũng lên án tính huênh hoang tự cao tự đại chỉ biết hưởng thụ, còn gánh nặng và khó khăn thì trút tất cả cho người khác.
2. Đối với sự gian dối và bất lương của những người biệt phái và các nhà thông luật Đức Giê-su đã không ngần ngại lên tiếng khiển trách họ. Thái độ khoe khoang và cái bề ngoài công chính, giả tạo nhưng bên trong lòng thì chứa đầy những gian xảo của những người biệt phái hay như hành động chèn ép và áp bức của các nhà thông luật đối với người dân bần cùng là cội rễ của các bất công xã hội. Đức Giê-su không có chủ ý kết án những người biệt phái và những nhà thông luật, ngược lại Người chỉ muốn khiển trách để cảnh tỉnh lương tâm của họ để họ lắng nghe lời Người là Con Thiên Chúa mà trở về con đường ngay thẳng (R.Veritas).
3. Đức Giê-su vạch rõ thói giả hình của họ. Giống như mồ mả tô vôi, các người biệt phái với áo vàng mũ miện đai nịt mầu mè, nhưng trong tâm hồn đầy những đam mê và suy nghĩ xấu xa. Đó là lối sống đóng kịch và khoe khoang khi muốn tỏ ra cho những người chung quanh những việc làm của họ để được ca tụng. Đó cũng là thái độ của không ít người trong chúng ta, tìm cách che giấu sự thật về con người của mình khi không khiêm tốn nhận những khuyết điểm của mình, không đón nhận sự thật về con người của mình. Lời Chúa mời gọi chúng ta trong khi lo trang điểm cho mình vẻ đẹp bề ngoài, thì cũng lo trang sức cho tâm hồn những nhân đức thánh thiện, lo cải hóa đời sống để được đổi mới trong mọi sự.
4. Chúa phê bình người biệt phái như vậy mà họ vẫn không tự ái, vẫn im lặng không lên tiếng. Trong lúc đó, có một người thông luật không chịu nổi nữa nên đã phản ứng lại:
– Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa (Lc 11,45)!
Đang ngon trớn, với giọng phẫn nộ, Đức Giê-su phê bình luôn cả những người thông luật: “Khốn cho các ngươi nữa, hỡi các nhà thông luật. Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn các ngươi thì, dù một ngón tay cũng không động vào” (Lc 11,46). Bắt người khác làm mà minh không làm… đó cũng là cách sống giả hình, ích kỷ.
Thánh Gia-cô-bê khẳng định: “Đức tin không có việc làm là Đức tin chết” (Gc 2,26).
Đức Giê-su không bao giờ rao giảng những gì mà Người đã không thực hiện trước. Người dạy các môn đệ tránh xa thứ men giả hình của biệt phái, tránh thái độ “ngôn hành bất nhất”, nói mà không làm. Đã có lần Chúa tuyên bố: “Không phải mọi kẻ nói với Thầy: Lạy Chúa, Lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời, nhưng là kẻ làm theo ý Cha Thầy” (Mt 7,21).
5. Có người nói: “Trời cho những cái bên ngoài, để che những cái sơ sài bên trong”. Những thứ bên ngoài lắm khi được chú ý một cách thật tỉ mỉ nhưng thực chất chỉ nhằm che giấu thực trạng tồi tàn trống rỗng nội tâm. Tình trạng đó xẩy ra trong đủ mọi lãnh vực từ việc quan hệ giao tiếp giữa người với nhau cho đến việc thờ phượng Thiên Chúa. Ngược lại có người phản ứng lại thái độ đó bằng cách phủ nhận mọi hình thức biểu dương bên ngoài, họ cho rằng chỉ cần giữ “đạo tại tâm” và không cần bất cứ hình thức thể hiện nào khác.
Đức Giê-su dạy chúng ta một đường lối trung dung: “Phải làm các điều này mà không được bỏ các điều kia”. Hãy bắt đầu sống “công bình và nhân ái” và rồi việc bên ngoài như “nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương và đủ thứ rau cỏ” sẽ là một trong những cách thể hiện “lẽ công bình và lòng nhân ái” đó (5 phút Lời Chúa).
6. Truyện: Người buôn cam ở Hàng Châu.
Ngày xưa ở Hàng Châu, có người chuyên đi buôn cam. Anh ta có tài để dành cam lâu ngày mà không ung, không thối, để lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, vẫn tốt, vẫn đẹp như cam mới hái. Anh đem ra chợ bán. Thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy cũng ham!
Nhưng rồi có một người tên Lưu Cơ cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Lưu Cơ liền chạy ra chợ tìm gặp người bán cam và trách móc:
– Anh bán cam cho người ta để làm của cúng của lễ, đãi tân khách hay là chỉ để làm choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối lắm!
Người buôn cam mỉm cười:
– Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua, chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng riêng gì một mình tôi. Thật ông chẳng nghĩ cho đến nơi đến chốn. Hãy thử xem, người đeo hộ phù, da hổ hùng dũng trông ra dáng quan võ lắm. Kỳ thực họ có được như Ngô Khởi, Tôn Tẫn thuở xưa không? Người đội mũ cao, đóng đai vàng, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có được giỏi như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên, không biết dẹp, dân khổ, không biết kêu vào đâu. Quan lại thì tham nhũng, không biết trừng trị. Pháp đồ hỏng không biết sửa đổi, ngồi không, ăn lương chẳng biết xấu hổ… thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, hách dịch vô cùng!… Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bề trong chẳng hôi xác xơ như bông nát là gì? Sao ông không chịu xét những hạng người như thế mà lại đi xét quả cam tôi?
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh
Ca nhập lễ
Chúng ta hãy vui mừng và hân hoan, vì Chúa muôn loài đã yêu thương trinh nữ thánh thiện và hiển vinh.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã ban ơn Thánh Thần soi sáng thánh Tê-rê-xa Giê-su để người vạch ra cho Hội Thánh một con đường dẫn đến đỉnh cao toàn thiện. Xin cho chúng con được hấp thụ giáo huấn của người và luôn khát khao sống cuộc đời lành thánh. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I
Phụng vụ Lời Chúa – (theo ngày trong tuần)
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, ước gì của lễ chúng con dâng được Chúa thương chấp nhận như xưa Chúa đã vui lòng chấp nhận cuộc đời hoàn toàn dâng hiến của thánh nữ Tê-rê-xa. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Người trinh nữ khôn ngoan đã chọn lấy phần tốt nhất, và sẽ không bị ai lấy mất.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa đã lấy bánh bởi trời bồi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con được cùng với thánh nữ Tê-rê-xa ca ngợi lòng từ bi Chúa đến muôn đời. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
Ở TRONG CHÚA ĐỂ SINH NHIỀU TRÁI TỐT (Ga 15, 1-8)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Cây với cành nho được Chúa Giê-su dùng để chỉ sự kết hợp chặt chẽ giữa Thiên Chúa với Dân Người, như cành sống nhờ cây, cây truyền nhựa cho cành, cả cây lẫn cành ngoài tùy thuộc vào đất, nước, khí trời, còn phụ thuộc vào người trồng nho nữa. Con người cũng cần phải kết hợp với Thiên Chúa như vậy.
1. Ở trong…
Với ví dụ về cành và cây nho, Chúa Giê-su nhấn mạnh đến sự “ở trong”. “Ở trong” là động từ chìa khóa của Tin Mừng Gio-an, nghĩa là thiết định một chỗ ở. Ở nói lên sự ổn định ‘an cư lạc nghiệp’. Đây là kế hoạch đầy tình thương của Thiên Chúa: chúng ta là những thụ tạo bất xứng, tội lỗi, thế mà Chúa mời gọi chúng ta ở với Chúa.
Để minh họa hình ảnh này, Chúa Giê-su nói: “Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái…” (x. Ga 15,4-8). Không ở trong Chúa Giê-su không thể không sinh trái được. Ai ở trong Chúa sẽ sinh nhiều hoa trái, là những trái tình yêu, tình yêu nảy sinh niềm vui. Chúng ta có thể nói mà không sợ lầm rằng niềm vui là hoa quả đích thực, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Từ cây nho chế ra rượu nho, rượu làm hoan hỉ lòng người, dấu chỉ của niềm vui.
2. Chúa Ki-tô là cây nho thật
Cây nho thật sinh nhiều trái tốt. Và đương nhiên, cây nho “xấu” không có trái, có đi chăng nữa thì cũng chỉ là trái chát, trái chua.
Khi nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái…” (Ga 15,4-8). Vậy nếu chúng ta ở, kết hợp với Chúa Giê-su, chúng ta sẽ có sự sống nơi Người, và sẽ sinh nhiều hoa trái. Khi ở và kết hiệp với Người chúng ta tiếp tục công việc của người là trao ban sự sống và tình yêu cho tha nhân; khi tách lìa Người chúng ta phá hủy công việc của Người và sinh ra hoa trái sự chết.
Vậy thì, ở trong Người như thế nào, gắn bó và kết hiệp với Người ra làm sao? Trước hết hãy cầu xin Chúa ban ơn để chúng ta có thể “ở trong Người”, thiết lập tương quan Tình Yêu đối với Người. Nếu chúng ta không nài xin Tình Yêu, chúng ta không thể lãnh nhận được ân sủng và Tình Yêu.
3. Tê-rê-xa A-vi-la là khuôn mẫu cho việc kết hiệp với Chúa
Hôm nay là ngày lễ nhớ thánh nữ Tê-rê-xa A-vi-la. Vị nữ tiến sĩ Hội Thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời vào thời Công Ðồng Trentô chấm dứt. Ngài như đóa hoa đẹp Thiên Chúa ban cho Hội Thánh giữa những gái góc đang phủ trên Hội Thánh.
Nói đến Thánh Tê-rê-xa A-vi-la, hẳn người ta không quên lời của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II khi đến A-vi-la vào tháng 11 năm 1982 rằng: “Từ A-vi-la, ngọn lửa tình yêu thương của Giáo hội lan tỏa, chiếu sáng và đốt nóng các nhà thần học và thừa sai. Ở đây, thánh Tê-rê-xa bắt đầu sự phục vụ một cách độc đáo Giáo hội của thời ngài, vào một thời sôi sục với cải cách và chống cải cách, ngài đã chọn con đường theo Đức Kitô một cách triệt để, xây dựng Giáo hội với những viên đá sống động của sự thánh thiện; ngài đã khơi dậy ngọn cờ của các lý tưởng Ki-tô giáo để thúc đẩy các mục tử của Giáo hội”.
Thánh Tê-rê-xa là bậc thầy về sự kết hợp với Chúa chiêm niệm và cầu nguyện. Theo ngài thì: “Tâm nguyện không là gì khác hơn cuộc trò truyện thân tình với Chúa, khi chúng ta thường xuyên dành thời giờ để một mình ở lại với Chúa là Đấng mà chúng ta biết rằng Ngài ở lại với chúng ta. Là Đấng mà chúng ta xác tín rằng Ngài yêu thương chúng ta”.
Ai trong chúng ta ai cũng sợ chết vậy mà trước giờ chết thánh Tê-rê-xa kêu lên “Ôi lạy Chúa, Vị Hôn Phu của con, giờ đã đến, giờ mà con hằng mong mỏi, giờ chúng ta gặp nhau”. Vì thế mà ngài là bậc thầy của chúng ta trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa.
Lạy thánh nữ Tê-rê-xa Giê-su, xin cầu cho chúng con. Amen.
Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Thánh nữ Têrêxa Avila qua đời tại Alba de Tormes, Tây Ban Nha, ngày 5 (theo lịch cũ Julien) hay ngày 15 tháng 10 năm 1582, ngày bắt đầu lịch mới Grégoire. Ngài được Đức Giáo Hoàng Grégoire XV phong thánh năm 1622, và được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên dương là tiến sĩ Hội Thánh năm 1970.
Têrêxa Giêsu, gọi là Avila (tên Tây Ban Nha là Teresa de Ahumada y Cepeda), sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515 ở Avila (Tây Ban Nha), trong một gia đình quí tộc gồm 8 cậu con trai và 3 cô con gái. Được thấm nhiễm những câu truyện và những bài đọc đạo đức, lúc 8 tuổi, cô bé trốn nhà đến sống “giữa người Maures” với hi vọng được tử đạo để “thấy Thiên Chúa”. Sau khi bị bắt về nhà, cô đã sống những năm hạnh phúc trong gia đình. Rất xinh đẹp và có duyên, cô cũng phần nào thích làm đỏm và vướng vào một chuyện rắc rối ngây thơ với một người anh họ. Bấy giờ – cô khoảng 16 tuổi – cha cô phải gửi cô đến ở nhà dòng thánh Augustine ở Avila; tại đây cô đã có quyết định trở thành nữ tu. Vì thế, sau khi trở về nhà, cô bị cha chống đối ơn gọi, nên cô đã trốn nhà để đi vào dòng Carmel Chúa Nhập Thể ở Avila ngày 2 tháng 11 năm 1537. Tại đây cô đã tuyên khấn trọng thể ngày 3 tháng 11 năm 1537, lúc 22 tuổi.
Tư chất thông minh nhưng sức khoẻ lại yếu kém, chị Têrêxa Giêsu gặp nhiều thử thách nghiêm trọng về sức khỏe; sau này chị nói với cha Diego: “Thưa cha, con nghi ngờ không biết có cơ thể sống nào lại chịu nhiều đau khổ hơn con.” Cũng thế, đời sống thiêng liêng của chị, trong khoảng hai mươi năm, cũng chỉ tỏ ra bình thường không có sự sốt sắng đặc biệt nào, cho tới mùa chay 1554, khi chị đọc quyển Tuyên Xưng (Confessions) của thánh Augustinô và suy ngắm trước hình Chúa chịu đánh đòn, chị đã hoán cải để bước vào một đời sống sốt mến nồng cháy. Từ đó, tình yêu Thiên Chúa của chị sẽ trở thành một “ngọn lửa thiêu đốt”. Sáu năm sau, “thị kiến” hoả ngục làm chị hiểu được giá trị của các linh hồn và mối nguy mất linh hồn. Lúc ấy chị quyết định làm mọi sự để cứu rỗi các linh hồn. Thế là bắt đầu thời kỳ thứ hai của cuộc đời Têrêxa Giêsu. Lúc ấy chị 40 tuổi.
Khao khát sống theo Tin Mừng hơn, và nhận thấy sự lỏng lẻo về kỷ luật tu trì trong tu viện của chị cũng như trong các tu viện khác của dòng Carmel, chị quyết định hiến mình cho việc cải cách Dòng. Được thánh Phêrô Alcantara và thánh Phanxicô Borgia nâng đỡ, năm 1562, chị Têrêxa lập tu viện cải cách đầu tiên của các chị dòng Carmel “đi chân không”, tu viện Thánh Giuse ở Avila. Tại đây, các nữ tu nghiêm ngặt tuân giữ bộ Luật Dòng Carmel nguyên thuỷ. Các ơn gọi tăng nhanh và sự sốt sáng của các chị em thật cao vời. Vài năm sau, năm 1567, chị được phép của Bề trên tổng quyền Carmel thiết lập thêm những tu viện cải cách khác. Thế là chị Têrêxa Giêsu bắt đầu một đời sống kỳ diệu, hầu như luôn luôn hành trình trong sự thiếu tiện nghi và nguy hiểm. Năm 1571, chị trở về làm bề trên tu viện Chúa Nhập Thể ở Avila (1571-1574) và tổ chức công cuộc cải cách ở đây, với sự trợ giúp của thánh Gioan Thánh Giá. Sau đó chị lại tiếp tục các cuộc hành trình để mở những tu viện mới. Năm 1567, bề trên tổng quyền dòng Carmel cho phép chị Têrêxa Giêsu lập những tu viện cải cách cho nam giới; chị trao nhiệm vụ này cho thánh Gioan Thánh Giá, cha giải tội của chị từ 1572 đến 1577. Như thế, đến khi chị mất năm 1582, chị đã lập được 16 tu viện nữ và 14 tu viện nam.
Thánh Têrêxa Avila đã để lại cho chúng ta một kho văn chương vô cùng phong phú, có giá trị tuyệt vời. Các tác phẩm của thánh nữ được xếp theo trình tự thời gian gồm: Sách cuộc đời (tiểu sử tự thuật); Con đường hoàn thiện; Các tư tưởng về Tình yêu Thiên Chúa; Các lời cảm thán; Hiến pháp Dòng; Lập các tu viện; Cách thức kinh lý tu viện; Lâu đài nội tâm hay Bảy nơi cư trú của linh hồn (hành trình của ân sủng trong bảy nơi cư trú của linh hồn); Các lời khuyên; Các tư tưởng và các bản văn ngắn khác; Các vần thơ; Thư từ (khoảng 650 lá thư). Tính cách của thánh Têrêxa Avila được phản ánh trong các tác phẩm của ngài mà ngày nay vẫn còn sức hấp dẫn đối với các tín hữu và người ngoại đạo. Những tác phẩm nay tạo cho thánh Têrêxa Giêsu một chỗ đứng độc đáo, không những trong lãnh vực tôn giáo, mà cả trong lãnh vực văn chương miền Castille và thế giới.
Thông điệp và tính thời sự
Những bản văn phụng vụ làm nổi bật những đặc điểm khoa linh đạo của thánh nữ Têrêxa.
Lời Nguyện của ngày gợi ra “con đường hoàn thiện” mà thánh nữ đã vạch ra cho Hội Thánh qua những tác phẩm và gương sáng của ngài, cũng như “học thuyết thiêng liêng của ngài” khiến ngài nhận được danh hiệu “tiến sĩ Hội Thánh”.
Theo thánh Têrêxa, thực sự Thiên Chúa là tất cả, nhưng loài người trong sự hư vô của mình không thể nào đạt tới Thiên Chúa nếu không có Chúa Kitô, “Đấng ban mọi điều lành cho chúng ta.” Chỉ mình ngài làm chúng ta nhận biết Thiên Chúa và chỉ mình Người cho chúng ta gặp được Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì Chúa Giêsu là “Người bạn và Người lãnh đạo tốt lành”, “Người bạn chân thực”. “Hãy nhìn ngắm cuộc đời Người, đó là mẫu mực hoàn hảo nhất.” “Thiên Chúa muốn chúng ta nhận được mọi sự nhờ bản tính nhân-thần này . . . và chúng ta phải vào qua cửa này nếu chúng ta muốn Thiên Chúa uy linh mạc khải những bí nhiệm vĩ đại của Người.” (Tiểu sử).
Nếu Thiên Chúa là viên đá chóp đỉnh của học thuyết thiêng liêng của thánh Têrêxa Giêsu, thì kinh nguyện là từ chủ chốt. Thánh nữ mô tả kinh nguyện như “một mối quan hệ tình bạn thân thiết nhờ đó một mình nói chuyện với Thiên Chúa mà chúng ta biết mình được Người yêu thương” (Tiểu sử). Lời cầu nguyện lấy chất liệu từ trong Tin Mừng, và theo thánh nhân nói, “những lời Tin Mừng luôn làm tâm hồn tôi lắng đọng hơn mọi cuốn sách tuyệt nhất” (Con Đường...), và kinh nguyện cũng đòi hỏi những điều kiện thích hợp: thanh vắng, thinh lặng, nghèo khó, v. v… Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn kết hợp với Thiên Chúa trong thanh vắng và qua kinh nguyện, thì không phải vì một mục đích ích kỷ, mà phải vì vinh quang Thiên Chúa, vì muốn đem Chúa đến cho người khác, nói với Chúa về người khác. Mối quan tâm đến các linh hồn luôn hiện diện trong tâm trí thánh Têrêxa, khiến thánh nữ từng nói sẵn sàng hy sinh cả ngàn lần đời mình–nếu ngài có–để cứu dù chỉ một linh hồn. Chính vì thế thánh nữ đã viết, các nữ tu Carmel đi chân không của tư tưởng viện thánh Giuse đã “khấn hứa cầu nguyện cho các vị bảo vệ Hội Thánh, các nhà giảng thuyết và các nhà thần học.” (Con đường): “Kinh nguyện của những người phụng sự Thiên Chúa có tác động rất lớn” (Tiểu sử).
Lời Nguyện trên lễ vật bộc lộ rõ “quả tim hoàn toàn dâng hiến (cho Thiên Chúa)” của thánh Têrêxa. Không ngừng trò chuyện với Thiên Chúa, thánh nhân thường xuyên được lôi cuốn vào trạng thái xuất thần. Thậm chí ngài còn được in năm dấu thánh, như ngài kể trong Tiểu sử (29, 13) và đã được nhà điêu khắc Bernin tạc thành tác phẩm tuyệt vời bằng đá cẩm thạch (Thánh đường Đức Mẹ Chiến Thắng, Rôma). Tuy nhiên, thánh Têrêxa Giêsu không bao giờ cho rằng sự thánh thiện hệ tại những hiện tượng phi thường. Bản thân ngài “hoàn toàn cháy lửa mến Chúa nồng nàn”, thánh nữ khuyên dạy các chị em tu sĩ của mình đâu là điều cốt yếu của sự thánh thiện: “Ai có Thiên Chúa thì không thiếu sự gì: Thiên Chúa là đủ cho họ. Mọi của cải của chúng ta là ở việc chu toàn thánh ý Chúa … Là con người thiêng liêng đích thực, các chị em có hiểu điều đó nghĩa là gì không ? Đó là làm những nữ tỳ của Thiên Chúa.”
Với Lời Nguyện sau hiệp lễ, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta có thể ca hát tình thương Chúa đến muôn đời, giống như thánh nữ Têrêxa Avila.
Cả cuộc đời, nhất là sau “cuộc hoán cải”, thánh nữ giống như bị thiêu đốt vì lòng khao khát Thiên Chúa. Ca Nhập lễ (Như con nai khao khát nước sự sống...), và thánh thi của Giờ Kinh Sách diễn tả niềm khao khát vĩnh cửu: “Chết vì không được chết / luôn luôn đeo đuổi ngài / đến nơi ở thứ bảy / tâm điểm của linh hồn / và ngài đến loan báo / Tình yêu gọi chúng ta.”
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêxa bộc lộ niềm khao khát Thiên Chúa bằng những lời đầy cảm hứng và nồng cháy: “Lạy Chúa và Hôn phu của con, giờ mong đợi đã đến. Đây là lúc chúng ta hội ngộ. Người Yêu của con, Chúa của con, đã đến giờ ra đi. Giờ đã đến. Xin cho ý Chúa thể hiện. Vâng, đã đến giờ con từ bỏ cõi lưu đày này và là giờ hồn con vui hưởng Chúa, Đấng con hằng khao khát.”
Thánh nữ Têrêxa ra đi về nhà Hôn phu, “khuôn mặt bừng cháy như mặt trời”. Ngài đã linh cảm được giây phút này và tả lại nó trong một tác phẩm của mình: “Con bướm vàng bé nhỏ đã chết trong niềm vui mênh mang là tìm thấy nơi an nghỉ, và Chúa Kitô sống trong nó... Nguyện cho Người được mọi tạo vật chúc tụng và tán dương đến muôn đời.” (Lâu Đài... VIII Dem. 3, 1 và 15).
Enzo Lodi
KHỐN CHO CÁC NGƯỜI
(THỨ TƯ – THÁNH TÊRÊXA AVILA 15/10)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Têrêxa Avila hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã ban ơn Thánh Thần soi sáng thánh Têrêxa Avila, để người vạch ra cho Hội Thánh một con đường dẫn tới đỉnh cao toàn thiện. Xin Chúa cho chúng ta được hấp thụ giáo huấn của người, và luôn khát khao sống cuộc đời lành thánh. Chào đời năm 1515 tại Avila, Tây Ban Nha, Têrêxa là một nhà cải tổ dòng Cátminh, một con người vừa chiêm niệm vừa hoạt động. Là người chiêm niệm, chị đã ghi lại kinh nghiệm thần bí của mình trong “chuyến đi lên Thiên Chúa”. Các tập sách của chị đã khiến chị thành bậc thầy về đường thiêng liêng. Là người sáng lập, chị đã rảo khắp nước Tây Ban Nha để thiết lập các đan viện. Tâm hồn chị được thống nhất nhờ nỗi khao khát được sống “một mình với Đấng Độc Nhất”. Chị qua đời ở Anba năm 1582.
Khát khao sống cuộc đời lành thánh, thi hành chức vụ tư tế và vương đế, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Dacaria: Vua và thượng tế; Các ngôn sứ đợi chờ một ông vua thiên sai sẽ cứu độ dân Ítraen. Các vua đã không hoàn thành sứ mạng, nhưng, thượng tế thì thời nào cũng có. Người ta hy vọng hoàng tộc Đavít, do ông Dơrúpbaven đại diện, sẽ được phục hưng. Trong công trình quy tụ Dân Thiên Chúa, vua và tư tế báo trước Đức Giêsu. Trong Thần Khí, hết mọi thành phần dân Chúa cũng sẽ được tham dự vào chức vụ Vua và Tư Tế của Đức Giêsu… Có hai cây ôliu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất. Chúa sẽ cho hai chứng nhân của Người đến tuyên sấm.
Khát khao sống cuộc đời lành thánh, kết hợp nên một với Chúa, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích tác phẩm của thánh Têrêxa Giêsu: Chúng ta hãy luôn luôn nhớ đến tình yêu của Chúa Kitô Giêsu… Lạy Chúa, kìa ai xa Chúa sẽ mai một hết. Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa, chốn ẩn thân đặt ở Chúa Trời. Ai đã kết hợp với Chúa thì nên một tinh thần với Người.
Khát khao sống cuộc đời lành thánh, chỉ tìm nương ẩn nơi Chúa mà thôi, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích thư của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma: Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm, trước là người Dothái, sau là người Hylạp. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 61 cho thấy: Lạy Chúa, Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người. Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn. Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến, duy Người là núi đá, là ơn cứu độ của tôi, là thành lũy chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng, và chúng theo tôi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Khốn cho các người, hỡi các người Pharisêu! Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật. Con đường tình yêu con đường dẫn tới Thiên Chúa, đi trên con này là đi trong bình an hạnh phúc, tìm đi con đường khác, là ta đang tự chuốc họa, rước khốn vào thân, như các Kinh Sư và những người Pharisêu. Thiên Chúa đã tỏ tình yêu thương ta biết mấy, khi cho chúng ta bảo chứng lớn lao về tình yêu ấy là Đức Kitô: quả thật tình yêu đòi hỏi tình yêu. Vì thế, chúng ta hãy ra sức tâm niệm điều đó để thúc đẩy mình yêu mến. Vì, nếu chỉ một lần Thiên Chúa ban ơn này cho ta là: in sâu tình yêu của Người vào trái tim ta, thì, mọi sự sẽ trở nên rất dễ dàng, và trong thời gian rất ngắn, chúng ta sẽ tấn tới nhiều mà không phải vất vả bao nhiêu. Chúa đã ban ơn Thánh Thần soi sáng thánh Têrêxa Avila, để người vạch ra cho Hội Thánh một con đường dẫn tới đỉnh cao toàn thiện. Ước gì chúng ta được hấp thụ giáo huấn của người, và luôn khát khao sống cuộc đời lành thánh. Ước gì được như thế!
PowerPoint-t4-t28-TN
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn